Bảo đảm tối đa quyền con người, quyền công dân trong xét xử các vụ án dân sự theo đúng tinh thần Hiến pháp 2013

Hoàng Ngọc 23/03/2015 08:58

Dự án Bộ luật Tố tụng dân sự (sửa đổi) dự kiến sẽ thu hẹp quyền giám đốc thẩm, tái thẩm trong một số vụ án dân sự. Tuy nhiên, tại Phiên họp thẩm tra dự án Bộ luật, các thành viên Ủy ban Tư pháp nêu rõ: quyền con người, quyền công dân phải được bảo đảm tối đa trong quá trình xét xử các vụ án dân sự. Đó là tinh thần, là yêu cầu của Hiến pháp năm 2013.

Sau 10 năm thi hành Bộ luật Tố tụng Dân sự đã bộc lộ một số hạn chế như: các quy định về thẩm quyền xét xử của Tòa án chưa hợp lý, quy định về chứng cứ, cung cấp chứng cứ và quyền tiếp cận chứng cứ, thủ tục xét xử sơ thẩm, phúc thẩm chưa bảo đảm thực hiện tranh tụng trong xét xử; căn cứ thẩm quyền kháng nghị trong thủ tục giám đốc thẩm chưa thực sự phù hợp. Điều đó đặt ra yêu cầu phải sửa đổi Bộ luật Tố tụng dân sự. Việc sửa đổi nhằm bảo đảm cụ thể hóa chủ trương của Đảng về cải cách tư pháp, đặc biệt là Nghị quyết số 48 – NQ/TW; Nghị quyết số 49 – NQ/TW; Kết luận số 79 – KL/TW của Bộ Chính trị và Văn kiện Đại hội XI của Đảng; và cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp năm 2013: Tòa án nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.

Yêu cầu trong sửa đổi Bộ luật đã rõ. Tuy nhiên, dự án Bộ luật Tố tụng dân sự (sửa đổi) vừa được đưa ra tại Phiên họp toàn thể lần thứ 15 của Ủy ban Tư pháp lại chưa đáp ứng được các yêu cầu này; chưa phát huy hết vai trò của Tòa án trong việc thực thi công lý, bảo vệ tối đa quyền con người, quyền công dân.

 Cụ thể, ngay trong quy định về căn cứ kháng nghị giám đốc thẩm, Tờ trình dự án Bộ luật Tố tụng dân sự cho rằng, nếu quy định Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao giám đốc thẩm những vụ án mà bản án quyết định đã có hiệu lực pháp luật của các Tòa án nhân dân cấp cao bị kháng nghị thì lượng án giám đốc thẩm thuộc thẩm quyền giải quyết của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao sẽ quá tải. Thực tế, tổ chức bộ máy của Tòa án nhân dân tối cao đã bị thu hẹp lại do không còn các Tòa chuyên trách, số lượng thành viên Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao cũng bị hạn chế, chỉ còn 13 đến 17 người. Vì vậy, quyết định sơ thẩm, phúc thẩm đã có hiệu lực pháp luật Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao chỉ được kháng nghị trong trường hợp có gây sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật và gây thiệt hại cho một trong các bên đương sự. Quy định như vậy sẽ bảo đảm tính khả thi trong việc giải quyết theo thủ tục giám đốc thẩm các vụ án dân sự của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.

Quy định này không nhận được sự đồng tình của các thành viên Ủy ban Tư pháp. Bởi lẽ, tại khoản 2, Điều 6, Luật Tổ chức Tòa án nhân dân (sửa đổi) vừa được QH Khóa XIII thông qua tại Kỳ họp thứ Tám quy định: Bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật mà phát hiện có vi phạm pháp luật hoặc có tình tiết mới theo quy định của luật tố tụng được xem xét lại theo trình tự giám đốc thẩm hoặc tái thẩm. Quy định của Luật Tổ chức Tòa án nhân dân không phân biệt căn cứ kháng nghị đối với bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của từng cấp Tòa án mà được áp dụng chung cho tất cả các cấp Tòa án. Cụ thể là, bất kỳ bản án nào, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của cấp tòa án nào, nếu phát hiện có vi phạm pháp luật thì bản án, quyết định đó phải được xem xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm. Dự thảo Bộ luật Tố dụng dân sự (sửa đổi) phân định căn cứ kháng nghị giám đốc thẩm theo hướng: đối với bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật thì căn cứ kháng nghị như hiện hành; còn đối với quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm của Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao chỉ được kháng nghị trong trường hợp có sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật là không phù hợp với quy định của Luật Tổ chức Tòa án nhân dân (sửa đổi).

Cùng quan điểm, Phó trưởng Ban Chỉ đạo cải cách tư pháp Trung ương Lê Thị Thu Ba nêu rõ, không nên phân biệt căn cứ kháng nghị giám đốc thẩm hoặc tái thẩm. Hiến pháp 2013 đặc biệt đề cao quyền con người, quyền công dân và vai trò của Tòa án trong việc bảo đảm công lý, bảo đảm quyền và lợi ích chính đáng, hợp pháp của công dân. Từ trước đến nay, trong hoạt động tư pháp, quan điểm nhất quán của Đảng và Nhà nước là: không để xảy ra trường hợp có sai lầm, khuyết điểm trong quá trình xét xử, hạn chế thấp nhất những sai phạm gây tổn thất cho đương sự. Chúng ta đã và luôn tuân thủ nguyên tắc đó. Vì vậy, với dự án Bộ luật Tố tụng dân sự (sửa đổi) lần này, càng không thể đặt vấn đề thu hẹp quyền kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm của nhân dân. Ngược lại, nếu có bất kỳ vi phạm pháp luật nào trong quá trình tố tụng dân sự dẫn đến bản án, quyết định của Tòa án bị sai lệch, làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của đương sự thì phải bảo đảm giám đốc thẩm, tái thẩm cho đương sự. Ủy viên Ủy ban Tư pháp Phạm Xuân Thường cũng khẳng định, nếu sơ thẩm, phúc thẩm có sai sót thì phải giám đốc thẩm, xem xét và sửa sai để bảo đảm sự công bằng, nghiêm minh của pháp luật.

Làm thế nào để phát huy vai trò giám đốc thẩm, bảo đảm tốt nhất lợi ích của đương sự là một trong những vấn đề còn ý kiến khác nhau giữa cơ quan soạn thảo và cơ quan thẩm tra. Cơ quan soạn thảo đề nghị mở rộng thẩm quyền của Hội đồng giám đốc thẩm. Theo đó, Hội đồng giám đốc thẩm có quyền sửa một phần hoặc toàn bộ bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật trong trường hợp không phải thu thập tài liệu, chứng cứ bổ sung nhằm giúp việc giải quyết vụ án không quay vòng nhiều lần gây tốn kém về chi phí, thời gian của đương sự cũng như của Nhà nước. Việc quy định bổ sung thẩm quyền này của Hội đồng giám đốc thẩm sẽ bảo đảm cho việc giải quyết vụ án có điểm dừng và phù hợp với Điều 103 Hiến pháp 2013 về chế độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm. Tuy nhiên, nhóm nghiên cứu của Ủy ban Tư pháp cho rằng, giám đốc thẩm là một thủ tục đặc biệt, chỉ tiến hành khi có những điều kiện cụ thể theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự và chỉ những chủ thể được quy định trong Bộ luật Tố tụng dân sự mới có quyền kháng nghị. Giám đốc thẩm không phải là một cấp xét xử thứ ba, đây là thủ tục xét lại bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật (hay còn gọi là thủ tục phá án). Mặt khác, nếu quy định Hội đồng giám đốc thẩm có quyền sửa một phần hoặc toàn bộ bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị sẽ có thể ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của đương sự trong vụ án, vì họ sẽ mất quyền tranh tụng tại phiên tòa, mất quyền kháng cáo. Do đó, không nên quy định thẩm quyền của Hội đồng xét xử giám đốc thẩm được sửa bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị. 

Phó chủ nhiệm Ủy ban Tư pháp Lê Thị Nga cũng cho rằng, việc giao thẩm quyền xét xử cho Hội đồng giám đốc thẩm cũng xuất hiện những mặt trái như: khi sơ thẩm, phúc thẩm đã ra phán quyết, Hội đồng giám đốc thẩm xét xử lại, đưa ra phán quyết khác so với sơ thẩm, phúc thẩm, nếu phán quyết giám đốc thẩm ảnh hưởng quyền lợi của đương sự thì đương sự có chấp nhận ngay phán quyết của giám đốc thẩm hay không? Quyết định giám đốc thẩm có chắc chắn là đúng và bảo đảm nguyên tắc xét xử hai cấp hay chưa? Đây là những vấn đề phải tính toán căn cơ nếu muốn trao thẩm quyền xét xử cho Hội đồng giám đốc thẩm.

Mục tiêu của Bộ luật Tố tụng dân sự (sửa đổi) là bảo đảm tối đa quyền con người, quyền công dân trong xét xử vụ án dân sự. Thực tế tố tụng dân sự vừa qua cũng đã xảy ra một số oan sai, dẫn đến tình trạng kháng nghị, khiếu kiện kéo dài. Vì vậy, việc sửa đổi Bộ luật này không những thể chế hóa chủ trương của Đảng về cải cách tư pháp, cụ thể hóa Hiến pháp về bảo đảm quyền con người, quyền công dân mà còn phải khắc phục được những hạn chế, sai sót trong tố tụng dân sự vừa qua. Có như vậy, Tòa án mới thực sự là nơi công lý được thực thi và bảo vệ.

    Nổi bật
        Mới nhất
        Bảo đảm tối đa quyền con người, quyền công dân trong xét xử các vụ án dân sự theo đúng tinh thần Hiến pháp 2013
        • Mặc định
        POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO