Bảo đảm các điều kiện để thực thi ngay
Trao đổi với phóng viên Báo Đại biểu Nhân dân ngay sau khi Quốc hội biểu quyết phê chuẩn việc gia nhập Công ước số 105 của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) về xóa bỏ lao động cưỡng bức, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Về các vấn đề xã hội BÙI SỸ LỢI khẳng định, đây là Công ước nhân văn, tiến bộ và đem lại nhiều lợi ích cho người lao động, người sử dụng lao động, Nhà nước và xã hội. Do đó, Chính phủ cần bảo đảm các điều kiện để thực thi ngay các nội dung của Công ước, tiếp tục cụ thể hóa các dạng hành vi của lao động cưỡng bức đã được quy định trong pháp luật hiện hành và xử lý nghiêm vi phạm.
Không chấp nhận bất kỳ hình thức lao động cưỡng bức nào
- Sáng qua, 458/460 đại biểu Quốc hội đã biểu quyết đồng ý phê chuẩn việc gia nhập Công ước số 105 của ILO về xóa bỏ lao động cưỡng bức. Nhiều năm hoạt động trong lĩnh vực lao động - việc làm, theo ông, kết quả này có ý nghĩa như thế nào?

- Tôi đánh giá rất cao việc Quốc hội phê chuẩn gia nhập Công ước này. Như vậy, đến nay, chúng ta đã phê chuẩn việc gia nhập 7/8 Công ước cơ bản của ILO và cũng xác định rõ lộ trình để phê chuẩn Công ước cơ bản còn lại của tổ chức này. Điều đó thể hiện chủ trương nhất quán của Việt Nam trong việc tôn trọng, bảo đảm thực thi quyền con người, quyền của người lao động. Chúng ta không chấp nhận bất kỳ hình thức cưỡng bức, bóc lột lao động nào. Đồng thời, thể hiện rõ Việt Nam là thành viên có trách nhiệm, rất nghiêm túc trong thực thi các cam kết quốc tế về lao động của mình trong các khuôn khổ pháp lý quốc tế rất khác nhau, cụ thể là trong khuôn khổ các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới và trong khuôn khổ ILO mà chúng ta là thành viên.
Ý nghĩa của việc phê chuẩn Công ước số 105 về mặt chính trị, pháp lý và kinh tế - xã hội đã được Chính phủ báo cáo rất rõ với Quốc hội. Tôi chỉ muốn nhấn mạnh thêm: Đối tượng hướng đến của Công ước số 105 là người lao động. Vì vậy, việc phê chuẩn Công ước và thực thi có hiệu quả việc xóa bỏ lao động cưỡng bức trên thực tế sẽ góp phần làm lành mạnh hóa quan hệ lao động, tạo ra môi trường lao động ổn định, hài hòa để người lao động yên tâm làm việc và nâng cao hiệu quả lao động, từ đó, đem lại lợi ích cho cả người sử dụng lao động, Nhà nước và xã hội. Việc xóa bỏ, không có lao động cưỡng bức cũng sẽ giúp doanh nghiệp Việt Nam dễ dàng hơn trong việc tiếp cận thị trường thế giới để xuất khẩu hàng hóa, dịch vụ của mình, nhất là thị trường Hoa Kỳ và châu Âu. Đây là lợi ích lớn có được từ việc gia nhập và thực hiện Công ước số 105.
- Như ông vừa đề cập, việc phê chuẩn Công ước số 105 sẽ đem lại lợi ích rất lớn cho người lao động, người sử dụng lao động, Nhà nước và xã hội. Vậy nhưng, vẫn có một vài ý kiến vừa qua cố tình xuyên tạc khi cho rằng, chúng ta phải phê chuẩn Công ước do sức ép từ bên ngoài?
- Việc gia nhập Công ước số 105 trên hết và trước hết là vì lợi ích của chính chúng ta. Để trình Quốc hội phê chuẩn Công ước hôm nay, chúng ta đã có sự chuẩn bị rất chủ động, bài bản và xác định lộ trình rất rõ ràng từ cách đây 5 năm, chứ không phải do bất kỳ sức ép nào từ bên ngoài như luận điệu xuyên tạc của một số cá nhân, tổ chức vừa qua. Cụ thể, ngày 31.12.2015, Thủ tướng đã ban hành Quyết định số 2528/QĐ-TTg phê duyệt Kế hoạch thực hiện và đề xuất gia nhập các công ước của Liên Hợp Quốc và ILO trong lĩnh vực lao động - xã hội giai đoạn 2016 - 2020, trong đó có kế hoạch gia nhập Công ước số 105. Chưa đầy một tháng sau đó, ngày 20.1.2016, Thủ tướng đã ban hành Quyết định số 145 phê duyệt Chiến lược Hội nhập quốc tế về lao động - xã hội đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030, trong đó, xác định mục tiêu cụ thể về “hoàn thiện thể chế về lao động - xã hội theo tiêu chuẩn khu vực và quốc tế, trong đó có các tiêu chuẩn lao động của ILO. Đến năm 2020, phê chuẩn các công ước cơ bản còn lại và một số công ước khác của ILO. Đến năm 2030, bảo đảm nội luật hóa toàn bộ các cam kết quốc tế về lao động - xã hội”.
Trên thực tế, trước khi Quốc hội Việt Nam phê chuẩn EVFTA, EVIPA và Công ước số 105, thì Nghị viện châu Âu đã phê chuẩn hai hiệp định này trên cơ sở thừa nhận sự thiện chí và sự tuân thủ cao các tiêu chuẩn lao động quốc tế của Việt Nam. Trước khi ấn nút phê chuẩn hai hiệp định này, các thành viên Nghị viện châu Âu đã sang thăm Việt Nam, trực tiếp quan sát và khẳng định những nỗ lực của Việt Nam trong việc bảo đảm thực thi các cam kết và tuân chủ các tiêu chuẩn của hiệp định, trong đó có các cam kết liên quan đến tiêu chuẩn quốc tế về lao động.
Xử lý nghiêm các vi phạm
- Thưa ông, theo kết quả rà soát hệ thống pháp luật, Chính phủ khẳng định, chúng ta không phải sửa đổi, bổ sung, điều chỉnh văn bản pháp luật nào để bảo đảm sự tương thích với Công ước số 105. Từ góc độ của cơ quan giám sát, ông có đồng ý với đánh giá này không?
- Công ước số 105 là một trong 8 công ước cơ bản của ILO mà Việt Nam là thành viên. Qua theo dõi, giám sát việc ban hành, thực thi pháp luật liên quan đến vấn đề lao động nói chung, lao động cưỡng bức nói riêng, tôi cho rằng, Chính phủ nhận định hệ thống pháp luật nước ta hoàn toàn tương thích với các quy định của Công ước là chính xác.
Pháp luật Việt Nam, đặc biệt kể từ năm 2013 khi Quốc hội tiến hành sửa đổi Hiến pháp năm 1992, chúng ta đã rà soát rất kỹ lưỡng và xác lập các quy định cụ thể trên cơ sở tiếp cận với các tiêu chuẩn quốc tế về quyền con người, quyền của người lao động, trong đó, nghiêm cấm cưỡng bức lao động và có những chế tài xử lý nghiêm khắc đối với hành vi này. Bộ luật Hình sự, Luật Phòng, chống mua bán người..., mới đây nhất là Bộ luật Lao động (sửa đổi) năm 2019 đều đã tiếp cận trên tinh thần của Công ước số 105 nói riêng và các công ước cơ bản của ILO nói chung. Về cơ bản cho đến nay, hệ thống pháp luật của nước ta đã thể hiện, nội luật hóa đầy đủ các tiêu chuẩn quốc tế về lao động.
- Sự đồng bộ, tương thích về cơ sở pháp lý như vậy là thuận lợi căn bản để thực hiện Công ước 105 sau khi được Quốc hội phê chuẩn. Còn ở góc độ thực thi thì sao, thưa ông?
- Chúng ta đã đạt được nhiều kết quả trong việc bảo đảm thực thi các tiêu chuẩn quốc tế về lao động, trong đó có tiêu chuẩn về xóa bỏ lao động cưỡng bức. Tuy nhiên, cũng cần lưu ý rằng, nhận thức, năng lực của người lao động, người sử dụng lao động, doanh nghiệp, các cơ quan, tổ chức có liên quan để phòng, chống và xóa bỏ lao động cưỡng bức còn hạn chế. Chúng ta cũng chưa có thống kê số liệu chính thức và đầy đủ về tình hình lao động cưỡng bức. Trong khi đó, sự phối kết hợp trong thanh tra, kiểm tra và giám sát về lao động cưỡng bức của các cơ quan có thẩm quyền còn chưa kịp thời và chặt chẽ...
Do đó, để bảo đảm thực thi đầy đủ nhất và hiệu quả nhất các nội dung của Công ước, Chính phủ cần chỉ đạo các bộ, ngành liên quan xây dựng kế hoạch cụ thể triển khai việc thực thi Công ước số 105, xây dựng đề án tuyên truyền, phổ biến nội dung Công ước số 105 tới người lao động, người sử dụng lao động, các cơ quan tổ chức có liên quan. Tiếp tục cụ thể hóa các dạng hành vi của lao động cưỡng bức đã được quy định trong pháp luật hiện hành, bảo đảm các cơ chế để kịp thời nhận diện, phát hiện và xử lý nghiêm các hành vi lao động cưỡng bức. Đồng thời, xây dựng cơ chế kiểm tra, giám sát việc thực hiện các quy định của pháp luật trong lĩnh vực lao động có liên quan theo đúng quy định của Công ước số 105. Ủy ban Về các vấn đề xã hội, các đại biểu Quốc hội cũng cần tăng cường giám sát việc thực thi Công ước này trên thực tế.
- Xin cảm ơn ông!