Bản lĩnh Võ Nguyên Giáp
Tư tưởng quân sự Võ Nguyên Giáp chính là sự biểu hiện tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh, nhưng bản lĩnh chỉ huy của Võ Nguyên Giáp thì chính là bản lĩnh của riêng ông, phong cách của chính ông. Trong cuộc đời binh nghiệp của mình, nhận nhiệm vụ được Bác giao cho, ông đã thể hiện được những tố chất quý báu của một nhân cách chính trị - quân sự tài ba.
![]() Nguồn: European Pressphoto |
Đặc điểm thứ hai trong bản lĩnh chỉ huy của Đại tướng Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp là luôn nắm vững phương châm độc lập tự chủ; lấy tự lực cánh sinh làm nguyên tắc cao nhất tuy vẫn coi trọng những yếu tố bổ trợ bên ngoài; biết cách khoét sâu điểm yếu của địch, khai thác tối đa yếu tố tinh thần, truyền thống năng động của ta, luôn tự thay đổi, đổi mới cách đánh cho phù hợp với hoàn cảnh cụ thể, thực sự cầu thị, không ngừng rút kinh nghiệm ngay trong từng giai đoạn của quá trình chỉ huy, để có những quyết định thay đổi kịp thời, tránh những sai lầm có thể.
Trong kháng chiến chống Pháp, ông đã biết dừng đúng lúc trong chiến dịch Trần Hưng Đạo; ông cũng đã hai lần hoãn mở chiến dịch Điện Biên Phủ, lần thứ nhất, hoãn để chuyển sang phương châm đánh chắc tiến chắc; lần hai, lùi ngày khai hỏa trong trận đánh Him Lam (từ ngày 11 chuyển sang ngày 13.3) để trinh sát lại lối vào cho chính xác.
Trong kháng chiến chống Mỹ, ông thẳng thắn vạch ra cái sai ở miền Nam khi mở đợt 2 (tháng 5.1968) và đợt 3 (tháng 8.1968) của cuộc Tổng tiến công Mậu Thân khi yếu tố bất ngờ đã không còn… Đó là những thí dụ tiêu biểu của tư duy chiến lược sáng suốt, khách quan, không duy ý chí.
Đặc điểm thứ ba là ở sự tôn trọng sinh mệnh con người. Trong suốt cuộc đời chỉ huy hơn 30 năm của mình, bao giờ ông cũng triệt để thực hiện phương châm “phải giành thắng lợi lớn nhất với mức tổn thất ít nhất về xương máu của tướng sỹ”. Thượng tướng, Gs Hoàng Minh Thảo, nguyên Đại đoàn trưởng Đại đoàn 304, Tư lệnh chiến dịch Tây Nguyên, Chỉ huy trưởng trận Buôn Ma Thuột (tháng 3.1975), nguyên Giám đốc Học viện Quân sự cấp cao, Viện trưởng Viện Chiến lược quân sự, đã khẳng định: “Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp chưa bao giờ nhân danh việc thực hành quan điểm cách mạng tiến công để đưa ra những mệnh lệnh chủ quan, gây nên thương vong nghiêm trọng và vô lý cho các đơn vị, nhất là cho các sư đoàn. Những đòn tiến công vừa táo bạo vừa cẩn trọng của Tổng tư lệnh chẳng những gây khiếp sợ cho quân địch mà còn bảo toàn được chủ lực và tính mạng của tướng sỹ với tỷ lệ cao.
Đồng chí Võ Nguyên Giáp luôn ý thức rất sâu sắc: người chỉ huy các cấp nói chung, nhất là Tổng tư lệnh, phải có trách nhiệm đối với từng vết thương, từng giọt máu của mỗi người lính. Tôi biết rõ Tổng tư lệnh đã từng nhiều đêm thao thức, nước mắt ướt đầm, vì được tin một chiến dịch nào đó máu chiến sĩ đổ quá nhiều, mà chiến thắng thì chưa tương xứng. Đấy là trái tim anh Văn! Đấy là cách đánh và cách tiến công nhân văn chủ nghĩa của Đại tướng Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp!”
Đại tá Nguyễn Giang Hà, nguyên Trưởng ban Tổng kết lịch sử Bộ Tổng tham mưu còn nhớ những kỷ niệm vê trận đánh 81 ngày đêm ở Quảng Trị năm 1972, về lệnh rút khỏi Thành cổ đuợc truyền vào ngày 15.9.1972: “Tôi nhớ Đại tướng Võ Nguyên Giáp có điện vào, đại ý: Cán bộ, chiến sỹ ta rất dũng cảm, nhiệm vụ đã hoàn thành. Lịch sử chống ngoại xâm giữ thành lâu như thế, ông cha ta ít làm”. Chấp hành lệnh rút, 2 giờ sáng ngày 16.9.1972, Nguyễn Giang Hà còn nhận được điện của Đại tướng gửi vào đài chóp. Ông kể lại: “Cho đến 4 giờ sáng ngày 17.9, một ngày sau khi ta rút khỏi Thành cổ, Đại tướng Võ Nguyên Giáp còn gọi điện trực tuyến hỏi tác chiến mặt trận: - Tôi có thông tin: trong Thành cổ còn sót lại 9 chiến sĩ do hầm ở xa nhau nên chưa nhận được lệnh rút, còn đang chiến đấu. Cho thẩm tra lại ngay! Giọng của Đại tướng trầm, vẻ đầy lo lắng. Đại tướng thương yêu da diết các cán bộ, chiến sỹ của mình. Ông không quên nhớ đến người chiến sỹ cuối cùng của mặt trận”.
Thượng tướng Trần Văn Trà, nguyên Tư lệnh Quân giải phóng miền Nam Việt Nam cũng đã nói: “Võ Nguyên Giáp là một Tổng tư lệnh biết đau với từng vết thương của mỗi người lính, biết tiếc từng giọt máu mỗi chiến binh. Tôi muốn nói rõ thêm ý kiến của mình: cuộc chống Mỹ cứu nước toàn thắng vừa qua đã ghi nhận vô số sáng tạo trên lĩnh vực quân sự của quân và dân ta. Nhưng cuộc chống Mỹ cứu nước toàn thắng vừa qua cũng đã ghi nhận một số bài học lịch sử vô cùng đau xót về vấn đề bảo toàn tính mạng và xương máu chiến sỹ. Có những trường hợp chiến thắng tuy lớn hoặc rất lớn, nhưng xương máu bộ đội bị mất mát quá nhiều. Những trường hợp này, nếu thực hiện cách đánh thận trọng hơn theo quan điểm của anh Văn thì chắc chắn số lượng thương binh và tử sỹ sẽ ít hơn, và vì thế, chiến thắng sẽ lớn hơn nữa”.
Từ một thanh niên trí thức yêu nước, đến khi tự nguyện đi vào con đường hoạt động cách mạng, được sống nhiều thời gian bên cạnh Bác Hồ, Võ Nguyên Giáp đã tiếp thu được tư tưởng Hồ Chí Minh, lấy dân làm gốc, coi trọng yếu tố con người, luôn đặt lợi ích chung lên trên hết, luôn nhớ phương châm “dĩ công vi thượng”. Giao trọn quyền phụ trách quân sự cho ông, Bác đã đồng thời cho ông mang bí danh là Văn, điều đó không phải không có ngụ ý sâu xa. Văn là chủ nghĩa nhân văn, chứ Văn thật vô cùng ý nghĩa khi mỗi quyết định của người mang bí danh này liên quan trực tiếp đến sự sống của hàng vạn con người. Bí danh Văn còn có nghĩa là văn hóa. Có văn hóa là biết cách ứng xử. Mở rộng ra, Văn còn là mưu lược. Quan võ mà dùng vũ lực không thôi, mới chỉ là Dũng. Biết dùng mưu, tức dùng Văn, mới gọi là Trí. Có cả Dũng lẫn Trí, cả Võ lẫn Văn, mới chỉ là tướng tài. Hội cả Nhân, Trí, Dũng như ở Võ Nguyên Giáp mới là thiên tài quân sự.
Khi được hỏi thần tượng quân sự của mình là ai, Đại tướng đã nói: “Thần tượng quân sự của tôi là Trần Hưng Đạo, Nguyễn Trãi, Nguyễn Huệ. Không có nhà cầm quân nước ngoài nào là thần tượng của tôi”. Ông đã noi theo Đức Thánh Trần, kết hợp cả cái Tài với cái Đức, cái Trí với cái Dũng, cái Nhân với cái Nghĩa, để làm sáng lên cái Đạo của người chỉ huy.
Tư tưởng quân sự Võ Nguyên Giáp bắt nguồn từ tư tưởng quân sự truyền thống xưa của dân tộc Việt Nam, “đem đại nghĩa để thắng hung tàn, lấy chí nhân mà thay cường bạo”. Nó cũng bắt nguồn từ tư tưởng Hồ Chí Minh coi dân là gốc, không “lấy súng đẻ ra chính quyền”, mà coi trọng “người trước, súng sau”, “chính trị đi trước quân sự”. Ông xây dựng đuợc quan hệ “quân với dân như cá với nước”, quan hệ giữa chỉ huy với chiến sĩ như anh em; đặt mối quan hệ giữa mình với người trên cơ sở của nguyên tắc tối cao “dĩ công vi thượng” đặt lợi ích chung lên trên hết; cả cuộc đời làm tướng không bao giờ vun vén lợi ích riêng, khi chiến thắng cũng không bao giờ nghĩ và cho rằng đấy là thành tích của riêng mình.
Nói đến một chiến công ông không quên các tướng sỹ thuộc quyền; không quên những người lính trực tiếp đối mặt với quân thù ngoài tiền tuyến; không quên những dân công sửa đường, phá thác, mở lối cho quân đi; không quên những thanh niên xung phong ở ngoài quân đội phục vụ hết mình cho cuộc chiến đấu, bảo đảm cho bộ đội phía trước có đủ lương thực, đạn dược; không quên các bác sỹ, y tá, hộ lý ngày đêm cứu chữa, chăm sóc các thương binh, bệnh binh; không quên những văn nghệ sỹ, diễn viên, ca sỹ làm nguồn dinh dưỡng tinh thần cho bộ đội; không quên đồng bào các địa phương, kể cả các đồng bào trong vùng tạm chiến, dù bị địch o ép, nhưng vẫn bí mật đùm bọc, giúp đỡ cho bộ đội. Kết thúc mỗi chiến dịch, trước khi rút quân về căn cứ, bao giờ Tổng tư lệnh cũng giao nhiệm vụ cho bộ đội giúp chính quyền địa phương ổn định lại đời sống nhân dân, đối xử nhân đạo với những phần tử đào ngũ, ra ngũ, bỏ hàng ngũ địch, trở về với nhân dân và gia đình.
Có thể nói: tư tưởng quân sự Võ Nguyên Giáp chính là sự biểu hiện tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh, nhưng bản lĩnh chỉ huy của Võ Nguyên Giáp thì chính là bản lĩnh của riêng ông, phong cách của chính ông. Trong cuộc đời binh nghiệp của mình, nhận nhiệm vụ được Bác giao cho, ông đã thể hiện được những tố chất quý báu của một nhân cách chính trị - quân sự tài ba. Ông được toàn thể bộ đội yêu mến, các tướng lĩnh nước ngoài kính nể. Nhà báo Bernard Fall từng đánh giá: “Trong một tuơng lai có thể thấy trước, phương Tây chưa thể đào tạo được một vị tướng nào sánh kịp với Võ Nguyên Giáp”.
Theo Võ Nguyên Giáp - Hào khí trăm năm
(NXB Trẻ, 2013)