Bài 4: Kinh tế số - nhân tố vừa là nền tảng vừa là động lực phát triển bền vững và cất cánh

ema-1.jpg

Phát triển Việt Nam trong kỷ nguyên mới

Bài 4: Kinh tế số - nhân tố vừa là nền tảng vừa là động lực phát triển bền vững và cất cánh

TS. Nhị Lê
Nguyên Phó Tổng Biên tập Tạp chí Cộng sản

Hiện nay, trong tổng thể phát triển kinh tế đất nước, không thể không lấy kinh tế số vừa làm một trong những nhân tố nền tảng vừa là một động lực lớn để nền kinh tế phát triển bền vững và cất cánh.


Đoạn tuyệt tư duy “chương hồi” kiểu “quả đấm thép”


Theo báo cáo từ Google và Temasek (Singapore), kinh tế số của Việt Nam đạt quy mô khoảng 3 tỷ USD vào năm 2015, đạt 9 tỷ USD vào năm 2018. Theo dự báo, vào năm 2025 tới đây, quy mô nền kinh tế số tại Việt Nam sẽ đạt con số 30 tỷ USD, nếu giữ vững nhịp độ tăng trưởng. Tổ chức Data61 (Australia) dự báo, GDP của Việt Nam có thể tăng thêm khoảng 162 tỷ USD trong 20 năm, nếu quá trình chuyển đổi số ở Việt Nam diễn ra nhanh chóng và thành công.

Và, theo sự hoạch định của Nghị quyết số 52-NQ/TW, ngày 27.9.2019, qua từng mốc giai đoạn 5 năm, 15 năm từ 2025-2030, 2030-2045, chúng ta đặt mục tiêu đến năm 2045 sẽ nằm trong nhóm dẫn đầu khu vực châu Á về sản xuất dịch vụ thông minh, khởi nghiệp và đổi mới sáng tạo. Người lao động Việt Nam được đặt mục tiêu sẽ trở thành nhóm nguồn lực có năng suất lao động cao, hiện đại, có năng lực làm chủ công nghệ trong tất cả các lĩnh vực từ kinh tế - xã hội tới môi trường, quốc phòng, an ninh.

Vì thế, trên phương diện này, tư duy về cấu trúc lại và tập trung phát triển các ngành công nghiệp cần phải thay đổi. Đoạn tuyệt tư duy “chương hồi”, kiểu “quả đấm thép”, nhưng với 19 ngành công nghiệp dàn trải, thiếu đột phá như vừa qua và duy tồn tới hiện nay.

ema-2.jpg

Nên chăng hướng vào việc kiến tạo và phát triển có thể trước hết với trọng tâm 5 ngành xứng đáng là mũi nhọn. Một là, công nghiệp phục vụ sản xuất và chế biến sản phẩm nông nghiệp sau thu hoạch. Hai là, công nghiệp phục vụ phát triển kinh tế biển (nuôi trồng, khai thác, chế biến thủy hải sản, dịch vụ hàng hải…). Ba là, công nghiệp dầu khí và năng lượng xanh. Bốn là, công nghiệp “xanh” - “không có khói”. Năm là, công nghiệp tin học điện tử, bán dẫn và công nghệ số…

Trong tổng thể phát triển này, xin nhấn mạnh: “Tỷ trọng công nghiệp chế biến, chế tạo trong GDP đạt trên 25%; kinh tế số đạt khoảng 20% GDP”, như Đại hội XIII của Đảng dự liệu, phải là cương lĩnh hành động đồng bộ, quyết liệt và hiệu quả.

Cần lưu ý và cảnh báo rằng, khi Chính phủ ban hành một chính sách điều tiết kinh tế nặng về can thiệp hay bảo trợ thiên lệch, nhất là đối với các doanh nghiệp nhà nước, thì thực chất là xâm phạm vào sự vận hành của nguyên lý thị trường trên nền tảng công bằng. Như thế, vừa cho doanh nghiệp một “phao cứu hộ”, một “sợi dây bảo hiểm thất bại”, vừa có nguy cơ làm đổ vỡ kế hoạch sản xuất, kinh doanh. Vô hình trung, chính sách đã thủ tiêu tính công bằng, làm nản lòng và triệt tiêu động lực phát triển của doanh nghiệp. Do đó, cải cách doanh nghiệp phải là khâu đột phá theo nguyên tắc thị trường mà chúng ta kiên quyết thực thi.

Một cách tất yếu, cần đổi mới và nắm lấy khâu “đột phá của đột phá” chiến lược về thể chế nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, để tạo “đường băng” cho nền kinh tế phát triển với gia tốc mới, hội nhập thế giới và cất cánh thành công.

Ở góc độ rộng hơn, tỷ lệ công nghiệp hóa/GDP trong giai đoạn 2011-2020 được các chuyên gia ước tính vào khoảng 39%, tức thấp hơn so với 40% mục tiêu của Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 2011-2020. Trong khi đó, tỷ trọng đóng góp của ngành dịch vụ/GDP trong cùng giai đoạn đạt tới 45%, tức đạt mục tiêu của các kế hoạch 10 năm qua. Điều đó càng cho thấy, trong suốt thập kỷ qua, Việt Nam mới “dịch vụ hóa” nền kinh tế chứ chưa phải để “công nghiệp hóa”. Kinh tế nông nghiệp, kinh tế biển hay kinh tế công nghiệp chế biến, chế tạo… cũng ở trong trạng thái ấy.

Do đó, xử lý mối quan hệ giữa tăng trưởng và phát triển trên lộ trình công nghiệp hóa vẫn đang là thách thức không nhỏ đối với việc kiến tạo động lực và sự phát triển bền vững của nền kinh tế, vừa nâng cao sức cạnh tranh vừa bảo đảm sức chống chịu của nền kinh tế trên lộ trình phát triển, nhằm chuẩn bị thực lực toàn diện để chớp lấy cơ hội và cất cánh.


Kinh tế phát triển song hành với phát triển xã hội


Vấn đề phát triển của kinh tế Việt Nam hiện nay cho thấy, cần phải giải quyết ở tầm nhìn, sâu hơn là tầm chủ thuyết phát triển.

Ở đây, có hai vấn đề về phương pháp. Một là, phát triển kinh tế là “giá đỡ” vững chắc cho xã hội phát triển. Cho tới hiện giờ, khi nhiều người nhìn một cách phiến diện và cho rằng, kinh tế Việt Nam chậm phát triển là do xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN và “đổ lỗi” cho doanh nghiệp nhà nước đã làm méo mó, biến dạng nền kinh tế thị trường.

Lỗi nằm ở chính phương diện thể chế thực tiễn. Và sự thật, chúng ta đã chỉ đạo chưa phù hợp, thậm chí chủ quan, có phần làm thay chức năng doanh nghiệp, trong khi thực chất cần chỉ rõ nhân tố định hướng XHCN bị lạm dụng, vô hình tạo ra thẩm quyền quá lớn cho Chính phủ trong việc can thiệp vào thị trường, doanh nghiệp nhà nước, trong khi đây chỉ là một trong số các công cụ do Chính phủ nắm giữ để dẫn dắt, khắc chế những lệch lạc của sự vận hành nền kinh tế thị trường.

Thực tiễn khẳng định, Nhân dân tham gia xây dựng chính sách, phản biện chính sách và giám sát quá trình thực hiện chắc chắn góp phần khắc phục những hạn chế của thị trường và sự quan liêu của Nhà nước nhằm xây dựng, đổi mới thể chế kinh tế, để nó không dừng lại ở mong muốn chủ quan và nền kinh tế thị trường đang xây dựng không trở nên “hoang dại” ngay ở những bước sơ khởi. Thể chế nhà nước theo đó cũng sẽ khó có nguy cơ sa vào quan liêu, tham nhũng, lạm quyền và lộng quyền như chúng ta lo ngại. Lòng Dân là thước đo đúng sai của mọi quyết sách.

Mặt khác, công việc đó càng cấp bách đòi hỏi, càng xây dựng một nền kinh tế thị trường hiện đại và hoàn bị càng cần một Nhà nước mạnh và hiệu quả, với hệ thống thể chế quản trị đủ mạnh, với rường cột là hệ thống pháp luật tiên tiến và hiện đại. Không có Nhà nước mạnh và điều tiết hiệu quả trên nền tảng pháp luật thì không có nền kinh tế thị trường nhằm bảo vệ Nhân dân; và càng không thể nói tới một hệ thống luật pháp tốt khi nó còn khập khiễng và một chính quyền bảo vệ nhân dân theo nghĩa là của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân với một bộ máy cồng kềnh, kém hiệu lực, hiệu quả, thậm chí là tham nhũng, lợi ích nhóm, cục bộ... ngay trong phát triển doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế thị trường. Đến lượt mình, Nhân dân đáng lẽ phải là người trực tiếp tham gia giám sát, kiểm soát những tật bệnh nảy sinh trong quá trình vận động của nền kinh tế mà những người được ủy quyền điều hành nền kinh tế quốc gia tất dễ phạm phải... lại chưa được coi trọng ngang tầm.

Và với tư cách là cơ quan lập pháp, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất và cơ quan đại diện cao nhất của Nhân dân, trước yêu cầu phát triển mới, Quốc hội không thể không từng bước chuyển từ kiêm nhiệm sang chuyên nghiệp hóa, chuyển từ báo cáo sang giải trình minh bạch, chuyển từ diễn giải độc thoại sang chất vấn, đối thoại, tranh luận, phản biện, chuyển từ trách nhiệm tập thể chung chung khó định lượng sang cá thể hóa trách nhiệm… theo Hiến pháp và pháp luật, bảo đảm để Nhân dân hành động một cách dân chủ và hiệu quả, trên phương diện này.

Bởi vậy, trên lộ trình đổi mới thể chế kinh tế, cần quan tâm xử lý một số phương châm. Thứ nhất, trên lộ trình tái cơ cấu nền kinh tế, cần lượng hóa mức độ và tỷ lệ phù hợp của doanh nghiệp nhà nước trong cơ cấu kinh tế nhà nước để cân đối mức độ đầu tư một cách tương xứng, quyết không ảo tưởng và tràn lan như suốt hai thập kỷ qua, để lại những hậu quả và tổn thất nặng nề. Ở đây, quan điểm “thà ít mà tốt” đặc biệt có giá trị phương pháp luận.

Hai là, trong cơ cấu nền kinh tế, từ tầm nhìn tổng thể, cần lựa chọn những lĩnh vực then chốt, có tính “yết hầu”, có khả năng chế ngự, dẫn dắt nền kinh tế quốc gia. Theo đó, xác lập số lượng, vị thế và phát triển thực lực các doanh nghiệp nhà nước một cách căn cơ, phù hợp, quyết không dàn trải, hình thức với quan điểm phải đủ khả năng đi tiên phong và làm trụ cột trong việc giải quyết những xung đột lợi ích trên tầm vĩ mô, xử lý những “điểm nghẽn” trong phát triển kinh tế đất nước, khi các thành phần kinh tế khác bất lực hoặc không thể đảm đương.

Ba là, thách thức về cạnh tranh quốc tế. Nếu tỷ lệ tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ trên GDP năm 1985 đạt 18,2%, thì năm 2000 là 96,5% và năm 2013 là 153,9%. Điều này có nghĩa là độ mở của nền kinh tế rất lớn; là cạnh tranh đang gõ cửa từng nhà, từng thiết chế cấu thành vận hành nền kinh tế quốc gia.

Từ thực tiễn gần 40 năm đổi mới, kiến tạo thể chế, tối thiểu cần nghiền ngẫm mấy phương diện chủ yếu:

Không đột phá đổi mới hệ thể chế nhằm giải phóng mọi tiềm năng, thực lực phát triển, tạo thời cơ phát triển mới thì rất khó có sự bứt tốc thành công như mong muốn. Đây chính là giải quyết mối quan hệ giữa đổi mới quan hệ sản xuất và phát triển lực lượng sản xuất. Trong sự phát triển toàn diện, đồng bộ thể chế kinh tế thị trường, cần nắm lấy ba khâu yết hầu, có tính quyết định khắc chế những khuyết tật, khai thông những “cục nghẽn mạch”, làm chuyển động tình hình và dẫn dắt thị trường tổng thể là: thể chế thị trường tài chính - tiền tệ, thể chế thị trường đất đai và thể chế thị trường công nghệ, để kỳ vọng phát triển rút ngắn trên lĩnh vực đầu tư, kinh doanh, tăng tốc phát triển nền kinh tế.

Không đột phá về phát triển kết cấu hạ tầng rất khó phát triển rút ngắn, càng khó “cất cánh” nền kinh tế như kỳ vọng. Phải chăng “đột phá của đột phá” ở đây là: Tập trung chỉnh đốn, phát triển hệ thống “huyết mạch cứng”: Đường bộ cao tốc Bắc Nam, liên vùng, các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, các tam giác, tứ giác phát triển, đường ven biển (kinh tế và quốc phòng) song hành với phương thức đi thẳng vào hiện đại hóa hệ thống hạ tầng “huyết mạch mềm” phát triển internet kết nối vạn vật, trí tuệ nhân tạo và công nghệ số?

Hơn bao giờ hết, sinh tồn trong một “thế giới phẳng và không phẳng, việc phát triển ngang tầm, cấp bách “động mạch chủ” và các “động mạch” phân hệ hợp thành hệ “huyết mạch” chi phối các trung tâm giao thông hàng hải, đường bộ, hàng không, hệ thống thông tin mạng… nuôi dưỡng, phát triển nền kinh tế mang tầm chiến lược trên cơ sở tiếp tục đột phá về kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại có ý nghĩa thành bại.

ema-4.jpg

Trên cơ sở tính toán tổng thể, phù hợp hệ thống kết cấu hạ tầng giao thông về đường bộ, hàng không, đường biển, đường sắt, với số lượng cầu cảng, sân bay bảo đảm sự tập trung, liên thông thống nhất các vùng kinh tế dọc ba miền Bắc - Trung - Nam, cần kíp đầu tư tổng lực để xây dựng đường bộ cao tốc xuyên Việt song hành với đường sắt cao tốc xuyên Việt gắn liền với hệ thống cảng biển, cảng hàng không liên kết vùng và quốc gia, liên thông quốc tế. Phải khai thông điểm quyết định mang tầm chiến lược này, càng sớm càng hiệu quả, trước mắt trong những năm 2025-2030, nếu muốn phát triển mạnh mẽ và bền vững.

Mặt khác, chưa bao giờ như hiện nay, sự phát triển của công nghệ mạng trở thành phân hệ huyết mạch rất quan trọng hoạt động trên tất cả các mặt đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội. Cùng với phân hệ huyết mạch “cứng” trên, phân hệ huyết mạch không gian mạng phải được phát triển song hành. Phát triển kinh tế thông qua hệ thống điện tử hiện nay đã vượt trên cả tự động hóa, thậm chí là điều khiển từ xa, chiếm quyền điều khiển từ nước ngoài. Tín dụng điện tử, tiền ảo, tiền công nghệ, trốn thuế… đều có thể diễn ra trên không gian mạng, đã vượt lên trên sự quản lý của một thể thức ngân hàng; nguồn gốc xuất xứ hàng thật, hàng giả, buôn lậu vượt qua khỏi lãnh thổ quốc gia.

Chúng ta đã và đang phải hoàn thiện hệ thống pháp luật để giữ gìn an ninh mạng và phục vụ cho phát triển kinh tế của đất nước. Việc chủ động kết nối, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp, cơ quan quản lý ở địa phương và người dân; đồng thời, phải bảo vệ bí mật quốc gia, bởi đây là tài nguyên quốc gia, liên quan đến chính trị, xã hội, thậm chí cả chủ quyền quốc gia… phải được coi là những công việc rất quan trọng trong phát triển kinh tế, không kém bất cứ một không gian phát triển kinh tế hay chính trị nào khác.

Phát triển chất lượng nguồn nhân lực. Mở rộng mọi con đường đầu tư phát triển trung tâm đổi mới sáng tạo để thu hút nhân tài, trước hết là các chính trị gia, kỹ trị gia và doanh nhân; đồng thời, kết nối với các trung tâm đổi mới sáng tạo, nghiên cứu trên thế giới bằng Internet, cung cấp, để cùng chia sẻ và thu hút đa chiều để họ, trực tiếp là các doanh nhân trên thế giới đến Việt Nam đầu tư và làm việc, và ngược lại; cần bắt đầu từ việc tạo ra những thiết chế và điều kiện để kết nối đất nước với các trung tâm công nghệ khác trên thế giới như Silicon Valley đã và đang hợp tác với Việt Nam…

ema-5.jpg

Có thể bắt tay ngay trong việc thiết kế sản xuất thiết bị để kết nối với nhà, đường sá, xe hơi... tất cả mọi thứ với nhau trong 15 năm tới, từ đó tạo nền tảng cho nông thôn thông minh, đô thị thông minh, nhất cần dẫn đầu trong các cảm biến về Internet vạn vật, trí tuệ nhân tạo, phân bổ nguồn lực, số hóa; quan tâm xứng đáng lĩnh vực giáo dục, các cuộc thử nghiệm, trao quyền đầu tư, với tinh thần khởi nghiệp, nỗ lực lấy con người làm trung tâm cho phép mở rộng cộng đồng nông thôn và thành thị…

Nói khái quát, không có “động mạch chủ” và “hệ huyết mạch” đa dạng, hoàn bị, thông suốt này trong “cơ thể sống” của đất nước không thể nói tới việc xây dựng, phát triển tầm nhìn, tư duy, càng khó có thể tạo nên sức mạnh có ý nghĩa nền móng của nền kinh tế song hành với phát triển xã hội và hội nhập thế giới, vận hành với một thể chế tương dung, trên nền tảng hệ kết cấu hạ tầng thích dụng, tương xứng song hành với phát triển nguồn nhân lực đủ sức dẫn dắt, thực thi tổng thể sự phát triển quốc gia.

Việt Nam với kỷ nguyên mới

Các đại biểu tham quan Triển lãm thành tựu 50 năm nền văn học nghệ thuật Việt Nam sau ngày thống nhất đất nước
Việt Nam với kỷ nguyên mới

Chuyển hóa mục tiêu, lý tưởng của Đảng, của dân tộc thành lý tưởng thẩm mỹ, cảm hứng sáng tạo chủ đạo của văn nghệ sĩ

Tại Hội nghị toàn quốc 50 năm nền văn học, nghệ thuật Việt Nam sau ngày thống nhất đất nước, các đại biểu đề nghị, cần gắn kết chặt chẽ sự nghiệp xây dựng, phát triển văn học, nghệ thuật với công cuộc kiến tạo kỷ nguyên mới, làm cho văn học nghệ thuật thấm sâu, lan tỏa trong các lĩnh vực của đời sống xã hội, thực sự trở thành động lực phát triển. Gắn bó văn nghệ sĩ với thực tiễn phát triển đất nước, bảo vệ Tổ quốc XHCN trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc. Chuyển hóa mục tiêu, lý tưởng của Đảng, của dân tộc thành lý tưởng thẩm mỹ, khát vọng tự thân và cảm hứng sáng tạo chủ đạo của văn nghệ sĩ.

Bài cuối: Vì một nền hành chính phụng sự nhân dân
Việt Nam với kỷ nguyên mới

Bài cuối: Vì một nền hành chính phụng sự nhân dân

Trong thời điểm chuyển mình lớn nhất của nền hành chính, điều cử tri và nhân dân kỳ vọng không chỉ là bộ máy tinh gọn, mà là một nền hành chính phụng sự nhân dân. Như Tổng Bí thư Tô Lâm đã nhấn mạnh: “Công tác nhân sự đã rất quan trọng - nay lại càng quan trọng hơn trước yêu cầu mới”. Giữ người tài. Trao cho họ cơ hội cống hiến. Đó là cách thắp lửa “nhịp tim” cải cách - và giữ vững niềm tin vào một nền hành chính đang chuyển mình mạnh mẽ, vì Tổ quốc, vì nhân dân.

Chuyển đổi số là đòn bẩy, con người là trung tâm
Chính trị

Chuyển đổi số vì môi trường - đổi cách nghĩ, làm môi trường bằng trái tim

Chuyển đổi số vì môi trường không chỉ là trang bị thiết bị, mà là đổi cách nghĩ. Hạ tầng công nghệ thông tin là xương sống, AI là bộ não, nhưng con người vẫn là trái tim. Cần xây dựng một đội ngũ cán bộ môi trường không chỉ giỏi nghiệp vụ, mà am hiểu công nghệ, thấu cảm cộng đồng và dám đề xuất cải tiến, làm môi trường bằng trái tim, chứ không chỉ bằng quy trình.

Bài 4: Trao quyền gắn với kiểm soát quyền lực
Chính trị

Bài 4: Trao quyền gắn với kiểm soát quyền lực

Trong giai đoạn 5 năm chuyển tiếp sau sáp nhập, khi số lượng biên chế tạm thời được giữ nguyên để sắp xếp lại, từng quyết định nhân sự sẽ định hình bộ máy trong nhiều năm tới. Bộ máy mới cần được vận hành bởi những người có năng lực, bản lĩnh, dám chịu trách nhiệm để đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu gần dân, phục vụ Nhân dân tốt hơn, giúp đất nước vững vàng bước vào kỷ nguyên vươn mình của dân tộc. Và điều đó chỉ có thể thực hiện khi trao quyền gắn liền với giám sát, kiểm soát quyền lực...

Bài 3: Chọn người xứng đáng - cần minh bạch, công bằng
Việt Nam với kỷ nguyên mới

Bài 3: Chọn người xứng đáng - cần minh bạch, công bằng

“Tôi không tiếc vì không còn chức vụ, chỉ tiếc những sáng kiến phải bỏ lại giữa đường”. Câu nói ấy - từ một cán bộ trẻ từng dấn thân - như một mũi tên găm vào lặng thinh. Sau đánh giá công bằng là một câu hỏi lớn hơn: làm sao giữ được người đã chứng minh giá trị? Trong một cuộc cải cách chưa từng có, chọn đúng người không thể theo cảm tính và cũng không thể chờ lòng tốt. Muốn chọn đúng người, cần minh bạch để người dám làm không bị loại vì thiếu “điểm cứng”; đủ công bằng để không ai bị gạt ra chỉ vì “không hợp cơ cấu”; và đủ kịp thời để cơ hội không trôi đi cùng nhiệt huyết.

Sớm đồng bộ, đoàn kết, đồng lòng vì sự phát triển của đất nước
Việt Nam với kỷ nguyên mới

Sớm đồng bộ, đoàn kết, đồng lòng vì sự phát triển của đất nước

Thông tin tại Hội nghị phổ biến, quán triệt Nghị quyết Hội nghị lần thứ 11, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Khóa XIII do Văn phòng Quốc hội tổ chức vừa qua, Vụ trưởng Vụ Lý luận chính trị, Ban Tuyên giáo và Dân vận Trung ương Đoàn Văn Báu nhấn mạnh, từ kinh nghiệm của Ban Dân vận và Ban Tuyên giáo cho thấy, những đơn vị thuộc diện sắp xếp cần sớm đồng bộ, sớm về một nhà, đoàn kết, đồng lòng, không có tâm lý "tỉnh anh, tỉnh tôi" mà phải vì sự nghiệp chung, đưa nước ta bước vào kỷ nguyên mới.

Bài 2: Lý lịch tĩnh - hay giá trị sống động?
Việt Nam với kỷ nguyên mới

Bài 2: Lý lịch tĩnh - hay giá trị sống động?

Mọi cuộc cải cách đều bắt đầu từ con người. Nhưng muốn chọn đúng người - phải đánh giá đúng. Khi còn chọn người theo “lý lịch tĩnh” thay vì dữ liệu sống, theo “đủ điều kiện” thay vì làm được việc, thì nguy cơ lớn nhất là lỡ mất người có thể giữ nhịp sống cải cách. Giữ người tài - không thể bằng cảm tính hay hô hào mà phải bằng một hệ thống đánh giá thực chất, công bằng, đo được và đủ sức truyền cảm hứng.

Bài 1: Giữ “mạch sống” của cải cách
Diễn đàn

Bài 1: Giữ “mạch sống” của cải cách

“Giữ người tài” không còn là một lựa chọn nhân sự, mà là trụ cột sống còn của cải cách bộ máy. Tổng Bí thư Tô Lâm nhấn mạnh: cải cách lần này là một cuộc cách mạng về tổ chức - thay đổi từ gốc, không chỉ sắp xếp đơn vị hành chính, mà cả cách đánh giá và sử dụng con người. Giữ đúng người - không thể đến sau, mà phải bắt đầu từ đầu: từ tư duy, thể chế đến hành lang minh bạch. Khi bộ máy mới được tinh gọn, thì mỗi người được giữ lại là một quyết định chiến lược; giữ đúng người, đúng lúc, đúng cách - là giữ lấy "mạch sống" của cải cách.

Toàn cảnh Hội nghị phổ biến, quán triệt Nghị quyết Hội nghị lần thứ 11, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII do Văn phòng Quốc hội tổ chức
Việt Nam với kỷ nguyên mới

Góp thêm niềm tin vào những chiến thắng vĩ đại của dân tộc ta trong kỷ nguyên mới

Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã tổ chức Hội nghị toàn quốc quán triệt, triển khai thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 11 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII theo hình thức trực tiếp kết hợp trực tuyến. Tại các buổi tiếp xúc cử tri mới đây, Tổng Bí thư Tô Lâm cũng đều khẳng định, “chưa bao giờ chúng ta để người dân được tiếp cận với nghị quyết nhanh như vậy”.

Kiến tạo chủ thuyết phát triển Việt Nam trong tầm nhìn năm 2045
Việt Nam với kỷ nguyên mới

Bài cuối: Phát triển nền móng tư tưởng, tinh thần, tâm lý quốc dân phù hợp với thời đại

Nếu kỷ nguyên mới là thời kỳ thách thức và hóa giải mọi giới hạn phát triển, xuất phát từ chính mình, tương dung với thời đại thì không thể không phát triển trên nền móng tư tưởng và tâm lý dân tộc với bản lĩnh tự tôn, tự trọng, tự cường và hành động quyết liệt nhằm tạo ra vận tốc phát triển mới, vì sự hùng cường của quốc gia phát triển hiện đại, nêu cao vị thế, sức mạnh và danh dự đất nước trong tầm nhìn tới năm 2045.

Bài cuối: Cần niềm tin mạnh mẽ để đất nước vươn xa
Việt Nam với kỷ nguyên mới

Bài cuối: Cần niềm tin mạnh mẽ để đất nước vươn xa

Lương Anh Tế - Chủ tịch hội Người cao tuổi tỉnh Hải Dương

Trước những thách thức, mọi cấp, mọi ngành, mọi cán bộ, công chức phải nỗ lực vượt qua, điều cần nhất vẫn là một niềm tin mạnh mẽ: rằng chúng ta đang đi đúng hướng. Thay đổi để đất nước có cơ hội vươn xa, để từng người dân được phục vụ tốt hơn, để cán bộ được làm việc trong một môi trường xứng đáng hơn. Khi bộ máy gọn nhẹ, thông suốt, và phục vụ hiệu quả - thì không chỉ ngân sách được giải phóng, mà cả trí tuệ và tâm huyết của những người trong hệ thống cũng được giải phóng.

Kiến tạo chủ thuyết phát triển Việt Nam trong tầm nhìn năm 2045
Chính trị

Kiến tạo chủ thuyết phát triển Việt Nam trong tầm nhìn năm 2045

Lời Tòa soạn: Sau gần 40 năm tiến hành công cuộc Đổi mới, chưa bao giờ như hiện nay, vấn đề xây dựng và thực thi triết lý phát triển Đất nước lại đặt ra và thách thức gay gắt, đòi hỏi Việt Nam một sự nỗ lực vượt bậc, toàn diện. Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, nhất là trí tuệ nhân tạo và công nghệ số đem đến cơ hội mà những quốc gia đang phát triển, chậm phát triển có thể nắm bắt để đi trước đón đầu, tăng tốc và kỳ vọng phát triển vượt bậc. Do đó, việc kiến tạo chủ thuyết phát triển Việt Nam trong tầm nhìn năm 2045 trở nên vừa cấp bách vừa mang tầm chiến lược. Báo Đại biểu Nhân dân trân trọng giới thiệu loạt bài của TS. Nhị Lê, nguyên Phó Tổng Biên tập Tạp chí Cộng sản với chủ đề: “Kiến tạo chủ thuyết phát triển Việt Nam trong tầm nhìn năm 2045”.

Bài 1: Tư duy đổi mới mạnh mẽ, quyết định hợp lòng dân
Chính trị

Bài 1: Tư duy đổi mới mạnh mẽ, quyết định hợp lòng dân

Khi Tổng Bí thư nhấn mạnh: cần một cuộc cách mạng về tổ chức bộ máy, đó không chỉ là tín hiệu cải cách - mà là lời hiệu triệu cho một cuộc chuyển mình sâu sắc, quyết liệt và chưa từng có. Cuộc cách mạng ấy bắt đầu từ niềm tin, được dẫn dắt bằng quyết tâm chính trị, và chỉ có thể thành công khi có sự đồng thuận của toàn dân.

Chặng đường vươn lên thành quốc gia phát triển không chỉ cần tầm nhìn chiến lược, mà cần sự thấu hiểu về con người.
Việt Nam với kỷ nguyên mới

Động lực hành vi trong hành trình chuyển mình của Việt Nam

Chặng đường vươn lên thành quốc gia phát triển không chỉ cần tầm nhìn chiến lược, mà cần sự thấu hiểu về con người. Kinh tế học hành vi mang đến cho Việt Nam một “bản đồ cảm xúc” để không chỉ thiết kế chính sách thông minh, mà còn truyền cảm hứng hành động cho một dân tộc đang vươn mình mạnh mẽ.

Bài cuối: Không chỉ là kỹ thuật quản trị, mà là tầm nhìn chính trị
Việt Nam với kỷ nguyên mới

Bài cuối: Không chỉ là kỹ thuật quản trị, mà là tầm nhìn chính trị

Để bộ máy nhà nước vận hành hiệu quả, cần cả sự rút lui đúng lúc và sự ở lại đúng người. Người tự nguyện nghỉ trước tuổi là những người biết lùi để cái chung tiến. Còn người tài phải được giữ lại, được nuôi dưỡng tinh thần cống hiến để cùng dẫn dắt cái chung phát triển. Giữ chân người tài, vì vậy không chỉ là kỹ thuật quản trị, mà là tầm nhìn chính trị. Đó là cách một nền hành chính chứng minh bản lĩnh trong việc giữ gốc rễ, để từ đó, cái cây cải cách có thể vươn lên bền vững.

Các chuyên viên Trung tâm Phục vụ Hành chính Công tỉnh Long An hỗ trợ người dân, doanh nghiệp tạo lập tài khoản và đăng ký chữ ký số để làm thủ tục hành chính trực tuyến.
Việt Nam với kỷ nguyên mới

Bài 1: Sự lựa chọn dũng cảm, đáng trân trọng

Trong "dòng chảy" cải cách hành chính mạnh mẽ, tinh giản biên chế và sắp xếp lại bộ máy nhà nước là bước đi tất yếu. Nhưng giữa những con số và kế hoạch tổ chức lại hệ thống, có hai nhóm người cần được nhìn nhận thấu đáo: những cán bộ sẵn sàng lùi lại vì cái chung và những nhân tài cần được giữ lại để dẫn dắt tương lai. Để không ai bị bỏ lại phía sau, càng không được để người tài ra đi.

Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn chủ trì phiên họp thứ hai của Ban Thường vụ Đảng ủy Quốc hội về sửa đổi Hiến pháp
Quốc hội và Cử tri

Hành động ngày đêm đưa thể chế thành lợi thế cạnh tranh

TS. Trần Văn Khải - Phó Bí thư Đảng ủy Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường

Quốc hội đang khẩn trương chuẩn bị cho Kỳ họp thứ Chín, dự kiến sẽ khai mạc ngày 5.5 tới - kỳ họp lịch sử với lượng công việc đồ sộ và hệ trọng. Toàn bộ hệ thống Quốc hội và các đại biểu Quốc hội đều đang dốc sức triển khai chủ trương lớn của Đảng và chỉ đạo của Tổng Bí thư Tô Lâm về tháo gỡ điểm nghẽn thể chế, đưa thể chế thành lợi thế cạnh tranh, đồng thời thực hiện mục tiêu tinh gọn bộ máy, phát triển khoa học công nghệ và chuyển đổi số.

Tổng Bí thư Tô Lâm thăm, kiểm tra công tác ứng trực và chúc Tết tại Cục An ninh mạng và phòng chống tội phạm sử dụng công nghệ cao
Chính trị

Chủ quyền số và an ninh công nghệ – lằn ranh sống còn trong "bão" công nghệ

TS. Trần Văn Khải - Phó Bí thư Đảng ủy Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường

Thế giới đang chứng kiến một “cơn bão công nghệ” dữ dội chưa từng có, với sự bùng nổ của trí tuệ nhân tạo (AI), sinh học kỹ thuật số và những đột phá đẩy nhanh chuyển đổi số. Trong cơn "sóng thần" kỹ thuật số ấy, chủ quyền số và an ninh công nghệ đã nổi lên như tuyến phòng thủ sống còn, quyết định sự tồn vong và vị thế của mỗi quốc gia. Việt Nam không thể đứng ngoài cuộc - nếu chậm trễ hoặc không hành động quyết liệt, chúng ta có nguy cơ mất kiểm soát không gian số của mình, tụt hậu và thậm chí bị cuốn phăng trong cơn lốc công nghệ toàn cầu.