Bài 4: Hiệu quả của Chính sách Chi trả dịch vụ môi trường rừng tại Việt Nam

Chính sách chi trả dịch vụ môi trường rừng (DVMTR) được triển khai trên cả nước từ năm 2011, đã thu được nhiều thành quả to lớn, góp phần quản lý, bảo vệ gần 7,3 triệu ha rừng, thúc đẩy xã hội hóa nghề rừng, giảm áp lực chi ngân sách nhà nước.

. Bài 1: Thị trường tín chỉ carbon rừng tiềm năng và thách thức

. Bài 2: Phát triển, phục hồi diện tích trồng rừng - điều kiện tiên quyết để tăng trưởng tín chỉ carbon

. Bài 3: Triển khai thí điểm Nghị định 107/2022/NĐ-CP - Thành tựu và những bài học quý giá

Tạo ra nguồn thu ổn định cho người dân địa phương

Theo Báo cáo từ Quỹ Bảo vệ và phát triển rừng, giai đoạn 2011- 2023, tổng thu tiền dịch vụ môi trường rừng đã đạt hơn 27.365 tỷ đồng, trong đó, riêng năm 2023, bên cạnh nguồn thu từ dịch vụ môi trường rừng theo Nghị định số 156/2018/NĐ-CP còn có nguồn thu từ dịch vụ hấp thụ và lưu giữ các-bon của rừng theo Nghị định số 107/2022/NĐ-CP (khoảng 997 tỷ đồng), nguồn tiền này đã giúp hỗ trợ bảo vệ hơn 7,3 triệu ha rừng, chiếm hơn 49% tổng diện tích rừng toàn quốc.

Đây là một khoản thu nhập bổ sung, có tính ổn định, hỗ trợ cải thiện sinh kế cho hàng nghìn hộ dân đồng bào dân tộc nghèo, sống ở khu vực rừng đầu nguồn, đặc biệt là ở các tỉnh miền núi như: Sơn La, Lai Châu, Lâm Đồng, Quảng Nam, Điện Biên, Thanh Hóa, và Nghệ An…, đồng thời giảm thiểu nạn chặt phá rừng do nhu cầu sinh kế.

z6079749078033-0cbf72b9ed727807f736aad736021ae8.jpg
Giai đoạn 2011- 2023, tổng thu tiền dịch vụ môi trường rừng đã đạt hơn 27.365 tỷ đồng

Ông Lê Văn Thanh, Phó Giám đốc Quỹ Bảo vệ và phát triển rừng Việt Nam cho biết, Quỹ Bảo vệ và phát triển rừng Việt Nam đang tiếp tục đôn đốc, chỉ đạo, hướng dẫn địa phương triển khai chính sách chi trả dịch vụ môi trường theo Nghị định số 156/2018/NÐ-CP, Nghị định số 91/2024/NĐ-CP và thí điểm thỏa thuận chi trả giảm phát thải khí nhà kính vùng Bắc Trung Bộ theo Nghị định số 107/2022/NÐ-CP của Chính phủ bảo đảm thu đúng, thu đủ và chi trả kịp thời, đầy đủ, đúng đối tượng.

Phấn đấu đạt mục tiêu thu tiền dịch vụ môi trường rừng toàn quốc năm 2024 (theo Nghị định số 156/2018/NÐ-CP) là 3.200 tỷ đồng; bảo đảm duy trì gần 7,3 triệu ha rừng trong lưu vực cung ứng dịch vụ môi trường rừng, chiếm 49,24% tổng diện tích rừng của cả nước. Cùng với đó, nghiên cứu, đề xuất điều chỉnh mức chi trả tiền dịch vụ môi trường rừng đối với cơ sở sản xuất thủy điện và cơ sở sản xuất nước sạch theo quy định tại Nghị định số 156/2018/NÐ-CP của Chính phủ. Phối hợp với các bên liên quan thực hiện công tác kiểm tra giám sát, nắm bắt, cập nhật thường xuyên tình hình tổ chức vận hành Quỹ và thực thi chính sách chi trả dịch vụ môi trường rừng, đẩy mạnh truyền thông, nâng cao nhận thức về các chính sách liên quan.

Từ việc được nhận nguồn hỗ trợ từ chi trả dịch vụ môi trường rừng hay nguồn từ thỏa thuận chi trả giảm phát thải khí nhà kính, đã tạo ra động lực cho cộng đồng tham gia bảo vệ và phát triển rừng tích cực hơn. Một số nơi đã chứng kiến việc các cộng đồng không chỉ ngừng chặt phá rừng mà còn chủ động phát triển các mô hình rừng sản xuất, rừng hỗ trợ sinh kế. Đặc biệt, ở các vùng rừng đầu nguồn, người dân nhận thức được vai trò quan trọng của rừng đối với nguồn nước sinh hoạt và thủy điện, qua đó tham gia tích cực vào công tác bảo vệ rừng.

Thừa Thiên Huế là một trong 6 tỉnh vùng Bắc Trung Bộ đang tham gia thực hiện thí điểm chuyển nhượng kết quả giảm phát thải và quản lý tài chính thỏa thuận chi trả giảm phát thải vùng Bắc Trung bộ (ERPA). Đây là hoạt động chi trả giảm phát thải dựa vào kết quả tiếp nối quá trình chuẩn bị, sẵn sàng thực thi REDD+ (giảm phát thải khí nhà kính do mất rừng và suy thoái rừng, bảo tồn trữ lượng carbon rừng, quản lý rừng bền vững và tăng cường trữ lượng carbon rừng). Qua đó, huy động thêm nguồn thu cho công tác quản lý, bảo vệ và phát triển rừng của địa phương.

z6079748557668-806ac793e0f186dbc18f7033429334ec.jpg
Người dân trồng rừng đi nhận chi trả tiền Dịch vụ môi trường rừng

Để đảm bảo tính bền vững của chính sách, với sự hỗ trợ của các dự án, tổ chức quốc tế, những năm qua, Quỹ Bảo vệ và phát triển rừng các tỉnh đã ứng dụng nhiều công nghệ như ảnh viễn thám phục vụ công tác giám sát hiện trạng rừng; sử dụng hệ thống giám sát, đánh giá chính sách chi trả dịch vụ môi trường rừng trên nền tảng WebGIS/QGIS, góp phần phục vụ hiệu quả công tác quản lý bảo vệ rừng, cũng như minh bạch hóa và công bằng trong hoạt động chi trả dịch vụ môi trường rừng trên địa bàn tỉnh.

Tương tự, tại Sơn La, nguồn tiền chi trả dịch vụ môi trường rừng còn được nhiều cộng đồng trích một phần để sử dụng đầu tư xây dựng các hạng mục công trình công cộng như đường bê tông nội bản và sửa chữa, nâng cấp xây dựng các công trình phúc lợi chung (nhà sinh hoạt văn hóa thôn, bản,…), phục vụ đời sống của nhân dân.

Tác động đối với môi trường

Kể từ khi triển khai chính sách chi trả dịch vụ môi trường rừng, diện tích rừng được bảo vệ từ nguồn tiền này đã gia tăng đáng kể. Theo thống kê của Quỹ Bảo vệ và phát triển rừng Việt Nam, năm 2012, diện tích rừng được bảo vệ từ tiền dịch vụ môi trường rừng khoảng hơn 3,6 triệu ha. Diện tích này có xu hướng tăng dần qua từng năm và đến năm 2023, đã có khoảng 7,3 triệu ha rừng được quản lý, bảo vệ từ nguồn tiền này. Nhiều địa phương có kết quả triển khai chính sách chi trả hiệu quả cao, đạt được kết quả ấn tượng trong việc duy trì diện tích rừng ổn định và giảm thiểu tình trạng phá rừng.

z6079749474681-a6d9ba52424386344480795b914727f2.jpg
Chính sách chi trả dịch vụ môi trường rừng không chỉ giúp bảo vệ tài nguyên rừng mà còn góp phần bảo vệ môi trường tự nhiên, đặc biệt là điều tiết khí hậu và bảo vệ nguồn nước.

Chính sách chi trả dịch vụ môi trường rừng không chỉ giúp bảo vệ tài nguyên rừng mà còn góp phần bảo vệ môi trường tự nhiên, đặc biệt là điều tiết khí hậu và bảo vệ nguồn nước.

Theo một nghiên cứu của Viện Khoa học Lâm nghiệp Việt Nam, rừng có vai trò quan trọng trong việc cung cấp nước cho các hồ chứa thủy điện và nguồn nước sinh hoạt của hàng triệu người dân. Các khu vực triển khai chính sách, như các khu rừng đầu nguồn ở Lâm Đồng và Quảng Nam, đã giúp giảm thiểu tình trạng khô hạn, bảo vệ tài nguyên nước và hỗ trợ phát triển các ngành công nghiệp khác như thủy sản và nông nghiệp.

Có thể nói, chính sách chi trả dịch vụ môi trường rừng tại Việt Nam đã đem lại những hiệu quả đáng kể về cả kinh tế và môi trường. Chính sách đã giúp bảo vệ rừng, góp phần tăng thu nhập cho người dân, cộng đồng và tạo ra sự đồng thuận, tham gia tích cực của bên sử dụng dịch vụ môi trường rừng. Tuy nhiên, để phát huy tối đa tiềm năng của chính sách hơn nữa, cần tiếp tục nghiên cứu cải thiện, hoàn thiện chính sách để tháo gỡ kịp thời những khó khăn, tăng cường kiểm tra, giám sát và đánh giá hiệu quả lâu dài, đồng thời mở rộng các loại dịch vụ môi trường rừng mới tiềm năng – như dịch vụ hấp thụ và lưu giữ các-bon của rừng.

Chính sách chi trả dịch vụ môi trường rừng là một chính sách giúp hiện thực hóa chủ trương xã hội hóa nghề rừng của Đảng và Nhà nước, được triển khai nhằm hỗ trợ các cộng đồng sống gần rừng bảo vệ và bảo vệ rừng một cách bền vững.


Đây là một chính sách mang tính đột phá khi chuyển hướng tiếp cận từ chỗ dựa hoàn toàn vào ngân sách sang huy động các nguồn vốn ngoài ngân sách và vốn xã hội hóa cho việc quản lý, bảo vệ và phát triển rừng bền vững.


Chính sách giúp huy động nguồn lực tài chính từ bên sử dụng dịch vụ môi trường rừng và chi trả cho bên cung ứng dịch vụ môi trường rừng theo quy định tại Luật Lâm nghiệp và Nghị định số 156/2018/NĐ-CP của Chính phủ.


Theo quy định, các đối tượng phải trả tiền dịch vụ môi trường rừng bao gồm cơ sở sản xuất thủy điện, nước sạch, kinh doanh du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng, cơ sở sản xuất công nghiệp, cơ sở nuôi trồng thủy sản. Trong đó, chi trả từ cơ sở thủy điện chiếm tỷ trọng phần lớn trong tổng nguồn thu tiền dịch vụ môi trường rừng hằng năm.

Môi trường

Cần có chính sách để khuyến khích doanh nghiệp, người dân tham gia vào quá trình xử lý rác thải
Môi trường

Cần có chính sách để khuyến khích doanh nghiệp, người dân tham gia vào quá trình xử lý rác thải

Phát triển bền vững, chuyển đổi số, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn đang là xu thế phát triển quan trọng trên thế giới và Việt Nam. Xu hướng này không chỉ mang lại cơ hội mà còn đặt ra những thách thức lớn cho nước ta. Do đó, Việt Nam cần có những giải pháp hữu hiệu, có chính sách để thúc đẩy xử lý rác thải theo mô hình kinh tế tuần hoàn, có chính sách để khuyến khích doanh nghiệp và người dân tham gia vào quá trình tái chế và xử lý rác thải.

Cần có thêm các chính sách hỗ trợ phù hợp để thu hút doanh nghiệp tham gia vào lĩnh vực tái chế rác thải
Xã hội

Cần có thêm các chính sách hỗ trợ phù hợp để thu hút doanh nghiệp tham gia vào lĩnh vực tái chế rác thải

Chia sẻ tại Tọa đàm “Kinh tế tuần hoàn trong xử lý rác thải ở Việt Nam”, đại biểu Quốc hội Phạm Văn Hòa (Đồng Tháp)  cho rằng, Nhà nước cần có thêm các chính sách hỗ trợ phù hợp để thu hút các doanh nghiệp tham gia vào lĩnh vực tái chế rác thải. Nếu không có cơ chế, chính sách hiệu quả cho công tác thu gom, xử lý rác thải, thì giảm được số lượng rác thải sẽ rất khó.

Đan Mạch- Việt Nam hợp tác chuyển đổi đô thị xanh
Môi trường

Đan Mạch- Việt Nam hợp tác chuyển đổi đô thị xanh

Nhằm thúc đẩy trao đổi kiến thức giữa các kiến trúc sư và chuyên gia của Việt Nam và Đan Mạch về chuyển đổi đô thị xanh, ngày 28.11 tại Hà Nội đã diễn ra Tọa đàm "Chuyển đổi Đô Thị Xanh – Từ Đan Mạch đến Việt Nam” do Đại sứ quán Đan Mạch tổ chức.

Đẩy mạnh chuyển đổi phương thức xử lý rác thải
Môi trường

Đẩy mạnh chuyển đổi phương thức xử lý rác thải

Hiện nay, Việt Nam đang nỗ lực phát triển kinh tế theo hướng bền vững, bảo vệ môi trường. Song, trước thực trạng tài nguyên thiên nhiên đang dần cạn kiệt, ô nhiễm môi trường và biến đổi khí hậu, bài toán đặt ra là phải chuyển đổi phương thức, mô hình xử lý rác thải để bảo đảm phát triển kinh tế - xã hội, mà vẫn bảo vệ được môi trường.

Phân loại rác thải tại nguồn: Quy hoạch nguồn rác, bãi rác có vai trò rất quan trọng
Xã hội

Phân loại rác thải tại nguồn: Quy hoạch nguồn rác, bãi rác có vai trò rất quan trọng

Để thực hiện việc phân loại rác thải sinh hoạt tại nguồn (từng hộ gia đình), PGS.TS Nguyễn Đình Thọ, Viện trưởng Viện Chiến lược, Chính sách tài nguyên và môi trường, Bộ Tài nguyên và Môi trường nhìn nhận, việc quy hoạch nguồn rác, bãi rác tại các địa phương có vai trò rất quan trọng.

Lãng phí rất lớn "tài nguyên rác"
Xã hội

Lãng phí rất lớn "tài nguyên rác"

Tại tọa đàm “Kinh tế tuần hoàn trong xử lý rác thải ở Việt Nam” do Báo Đại biểu Nhân dân tổ chức sáng 27.11, nhiều đại biểu cho rằng, vấn nạn rác thải đã và đang đe dọa rất nghiêm trọng tới cuộc sống của con người. Bên cạnh đó, chúng ta cũng đang lãng phí một nguồn tài nguyên rất khổng lồ…

Đẩy mạnh chuyển đổi số để minh bạch hóa quản lý rừng
Xã hội

Đẩy mạnh chuyển đổi số để minh bạch hóa quản lý rừng

Hiện nay, ngành lâm nghiệp chịu trách nhiệm quản lý 16,348 triệu ha đất lâm nghiệp. Trong đó, diện tích có rừng là 14,860 triệu ha. Đây là một ngành kinh tế - kỹ thuật đặc thù. Vì vậy, để nâng cao hiệu quả công tác quản lý diện tích rừng và đất trồng rừng, cũng như giúp theo dõi sát sao sức khỏe của hệ sinh thái, dự đoán nguy cơ cháy rừng, phát hiện khai thác… ngành lâm nghiệp đang chú trọng chuyển đổi số.

Chủ tịch Hội Nông dân Việt Nam Lương Quốc Đoàn và Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Đỗ Đức Duy đồng chủ trì Diễn đàn Lắng nghe nông dân nói
Môi trường

Diễn đàn Lắng nghe nông dân nói

Sáng 24.11, tại Trung tâm Hội nghị Quốc tế 11 Lê Hồng Phong, Hà Nội, Trung ương Hội Nông dân Việt Nam phối hợp với Bộ Tài nguyên và Môi trường tổ chức Diễn đàn “Chủ tịch Hội Nông dân Việt Nam – Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường lắng nghe nông dân nói”.