Bài 4: Đột phá phát triển kết cấu hạ tầng

09/03/2022 06:46

TS. Nhị Lê

                         Nguyên Phó Tổng biên tập Tạp chí Cộng sản

Khâu đột phá - mắt xích thứ hai của sợi dây chuyền tổng thể cần phải nắm lấy, đó là đột phá phát triển kết cấu hạ tầng. Thừa kế và phát triển mấy chục năm, nhất là từ sự chuẩn bị những năm qua và vận hội phát triển kinh tế tri thức, kinh tế số, kinh tế tuần hoàn, trí tuệ nhân tạo, internet kết nối vạn vật… của thời đại mang lại, nhất là từ địa - kinh tế, có hai phương diện đòi hỏi chúng ta cần nắm lấy, với phương châm phát triển “rút ngắn”, khả dĩ làm "đôi cánh” để xây dựng nền móng cho cuộc “cất cánh” của nền kinh tế.

Tuân thủ điều hành của “nhạc trưởng” - Nhà nước 

Những tiền đề và yêu cầu về địa - chính trị, địa - kinh tế… mang tầm chiến lược của đất nước, những điều kiện thời đại mang lại, hoàn toàn cho phép chúng ta thực thi những trọng sự đó nhằm đổi mới tầm nhìn, quyết sách trong việc kiến tạo nền tảng kinh tế tương dung làm “giá đỡ” vững chãi và phù hợp cho công cuộc đổi mới toàn diện, đồng bộ. Vấn đề còn lại là, hoạch định lộ trình, lựa chọn phương thức thực thi và xác định nhịp độ phù hợp, ở đây là kết cấu hạ tầng, không thể nôn nóng, cũng không thể chậm chạp, đến lượt nó giữ vai trò quan trọng quyết định thành công. Nó không chấp nhận tình trạng “khoanh vùng cục bộ”, khép kín, rời rạc hay “kinh tế ngành cát cứ” một cách thiển cận, bản vị, phường hội, chi phối bởi “lợi ích nhóm” và các nhóm lợi ích, vô hình trung “xẻ thịt” và “băm nát” nền kinh tế thống nhất.

Vấn đề quan trọng là, hoạch định lộ trình chiến lược từ các vùng kinh tế tới tổng thể nền kinh tế quốc gia, lựa chọn phương thức thực thi và xác định nhịp độ phù hợp trên nền móng kết cấu hạ tầng “cứng” và “mềm” một cách tương dung, thậm chí vượt trước. Tất cả phải tuân thủ sự điều hành của “nhạc trưởng” trên tầm vĩ mô và chiến lược - Nhà nước. 

Trên địa hạt này, xin nhấn mạnh, tốc độ tăng trưởng kinh tế rất quan trọng, nhưng đẳng cấp của nền kinh tế mới là điều phải hướng tới xây dựng, mà tiêu chí hàng đầu là chất lượng và giá trị của sự phát triển, trên nền tảng hạ tầng tương xứng. Đó là cái gốc bảo đảm sự phát triển và khẳng định đẳng cấp của nền kinh tế. Theo nghĩa nào đó, ở góc nhìn khác, đó chính là văn hóa. Cuộc cạnh tranh hoặc thắng hoặc thua trên thế giới trong tương lai, sự thành hay bại của chúng ta một phần căn bản chính là ở chỗ này. Đó chính là động lực mạnh mẽ để chúng ta phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN một cách hoàn bị, hiện đại, kiên quyết chuyển mạnh mẽ và triệt để từ một nền kinh tế tồn tại sang một nền kinh tế cơ cấu, với phương thức chuyển từ lợi thế tiềm năng sang lợi thế cạnh tranh độc đáo, hướng tới xây dựng tư tưởng kinh tế Việt Nam của thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế trong tầm nhìn năm 2045, để dân tộc trở nên tự cường mạnh mẽ và bền vững.

Phát triển một cách đa dạng trong thống nhất

Từ sự chuẩn bị của chúng ta những năm qua trên phương diện này và vận hội phát triển kinh tế tri thức của thời đại mang lại, nhất là từ địa - kinh tế, trong việc đột phá xây dựng kết cấu hạ tầng, có hai phương diện chúng ta cần nắm lấy: đột phá hạ tầng “cứng” và “mềm”, nhưng với phương châm phát triển “rút ngắn”, làm “đường băng” để nền “kinh tế cất cánh”. Đó chính là tư duy chiến lược, là chiến lược phát triển, là quyết sách chính trị, là lực lượng hữu hình và vô hình, cũng chính là mệnh lệnh phát triển và bứt phá của nền kinh tế Việt Nam.  

Trong suốt hai thập kỷ qua, Việt Nam ở chừng mực nào đó mới “dịch vụ hóa” nền kinh tế chứ chưa “công nghiệp hóa”, “hiện đại hóa” một cách xứng tầm và đồng bộ. Đó là hậu quả trực tiếp khiến cho nhiều mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước vào năm 2020 chưa đạt được, nghĩa là các mục tiêu phát triển đã chậm thêm tối thiểu 10 năm. Vì, phương thức đi của nền kinh tế chưa được xác định rõ ràng, đặc biệt hệ thống kết cấu hạ tầng chưa tương xứng với mục tiêu và thực tiễn phát triển mang tầm tổng thể.

Thực tiễn cho thấy, chúng ta chưa thực sự xem thế kỷ XXI là “thế kỷ của đại dương”. Thực tiễn cũng cho thấy, chúng ta coi một trong những quốc sách hàng đầu là phát triển nông nghiệp là đúng, song chưa có kế sách chiến lược gắn với biển, kinh tế biển và phát triển biển. Đầu tư cho các lĩnh vực nông nghiệp và biển trong tổng đầu tư ngân sách quốc gia chưa thực sự ngang tầm. Chẳng hạn, nhìn trong 5 năm thực hiện tái cơ cấu nông nghiệp giai đoạn 2013 - 2017, vốn đầu tư toàn xã hội cho ngành nông, lâm, thủy sản đạt khoảng gần 390.000 tỷ đồng, chỉ chiếm 5,69% tổng vốn đầu tư toàn xã hội.

Chúng ta chọn tới 19 ngành công nghiệp làm mũi nhọn, nhưng các ngành này lại rất ít liên quan một cách tương xứng với biển, kinh tế biển và kinh tế nông nghiệp. Do đó, công nghiệp hóa trên các lĩnh vực quốc sách này đã không tiến bước như mong đợi. Nguyên nhân căn bản là, chưa có một hệ thống kết cấu hạ tầng tương xứng với quy mô và tốc độ đổi mới nền kinh tế và sự phát triển của xã hội.

Thế kỷ XXI là thế kỷ của đại dương. Là một quốc gia biển, Việt Nam không thể không đứng vững trên lợi thế cạnh tranh và lợi thế so sánh này. Là một quốc gia nông nghiệp, với 100 triệu dân, thì “nông vi bản” phải vững mạnh và gắn chặt với biển, làm “đường băng” để đất nước cất cánh. Đó phải là chiến lược phát triển mang tầm nhìn thế kỷ, không chỉ về kinh tế mà rộng và sâu hơn mệnh hệ tới chính trị là độc lập chủ quyền quốc gia và an sinh xã hội căn bản.

Từ xuất phát đó và từ thực tiễn, phải chăng là phát triển xứng tầm kinh tế biển: hướng ra biển, phát triển biển và lấy biển là tương lai để phát triển toàn diện, mạnh mẽ và bền vững quốc gia?

Có thể nói, đây là một tất yếu phát triển mang tầm chiến lược của đất nước cho cả trăm năm sau. Tiếc rằng, hơn hai thập kỷ gần đây, chúng ta mới dành sự chú ý và đầu tư một cách tương đối hệ thống, mạch lạc cho vấn đề này về mặt thực tiễn với việc ban hành Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020 vào ngày 9.2.2007.

Nói xác đáng, xét trong tính chỉnh thể, xa rời biển, lãng phí biển, tách kinh tế biển với kinh tế nông nghiệp, xét trên mọi chiều cạnh dù kinh tế, văn hóa hay an ninh, quốc phòng, đều là sai lầm. Chẳng hạn, chưa bao giờ như bây giờ, mới đây, tới nước ngọt cũng trở thành “con bài chính trị”, “mặc cả chính trị”, khi tình trạng "mặn hóa" đe dọa Đông Nam Á, trong đó có nước ta. Do đó, để phát triển một nền nông nghiệp tinh hoa lúc này và trong cả thế kỷ XXI không thể không là một nền nông nghiệp công nghiệp hóa, phát triển tương dung và hài hòa với tình trạng biến đổi khí hậu.

Những hệ lụy của biến đổi khí hậu như bão lũ thất thường, nước biển dâng, mặn xâm nhập rất sâu gây nên tình trạng “mặn hóa” và thảm trạng sa mạc hóa đất nông nghiệp… đang lan khắp duyên hải miền Trung và Tây Nguyên và cả đồng bằng sông Cửu Long. Theo dự báo của Ngân hàng Thế giới (WB), đến năm 2030, trên 400.000 người dân Việt Nam có thể rơi vào tình trạng đói nghèo cùng cực do các hệ quả ngoài ý muốn liên quan tới biến đổi khí hậu với những hệ lụy của nó đối với kinh tế biển và kinh tế nông nghiệp…

Dù theo kịch bản nào cũng rất đáng lo ngại.

Do đó, an ninh môi trường sinh thái trong phát triển nông nghiệp nói riêng, rộng ra là một nền kinh tế phù hợp với phát triển kinh tế nông nghiệp gắn bó hữu cơ với biển, kinh tế biển và phát triển biển phải được đặt ra cấp bách và giải quyết đồng bộ mang tầm chiến lược và hiệu quả. Chỉ có như vậy mới có một nền nông nghiệp bền vững, bảo đảm chiến lược an ninh lương thực bền vững cho 100 triệu người, rộng ra là bảo đảm an ninh kinh tế, nền móng của an ninh chính trị, an ninh quốc phòng; mới nói tới đẳng cấp của nền nông nghiệp xanh; mới xác lập được lợi thế cạnh tranh, mà rất lâu nay chúng ta chưa làm được như mong muốn và ngang tầm lợi thế của một quốc gia nông nghiệp, một đất nước của biển và dứt khoát phải trở thành cường quốc biển.

Coi nhẹ biển, kinh tế biển và phát triển biển là đi vào ngõ cụt trong việc phát triển nền kinh tế quốc gia, trực tiếp là nền kinh tế nông nghiệp toàn diện tương xứng với tiềm năng gắn với phát triển kinh tế biển và an ninh biển. Nhưng, bao nhiêu cảng biển là phù hợp, hệ thống đường biển và đường bao biển mang tầm chiến lược như thế nào, khi 28 tỉnh, thành có biển?

Theo đó, liệu chúng ta có thể không cấp bách cơ cấu lại ngành nông nghiệp mà không gắn với biển? Không đẩy mạnh ứng dụng công nghệ cao trong phát triển biển và phát triển nền nông nghiệp? Không tăng cường khâu chế biến, bảo quản nông sản, thủy sản, hải sản sau thu hoạch nằm trong chuỗi giá trị toàn cầu? Không sản xuất theo tín hiệu, yêu cầu của thị trường và không mở rộng, phát triển thị trường từ nông nghiệp và biển hay không? Chúng ta phải bằng mọi giá giữ chất lượng và chữ tín các sản phẩm từ nông nghiệp, từ nuôi trồng, khai thác và phát triển biển trước nguy cơ rác thải nhựa, mối nguy vi nhựa; hoàn thiện kết cấu hạ tầng phục vụ nông nghiệp, nông thôn cả vùng cao tới miền biển; sử dụng linh hoạt, có hiệu quả diện tích đất trồng lúa, nuôi trồng thủy sản, hải sản và sớm lấy lại “thẻ xanh” của Ủy ban châu Âu (EC) về thủy sản, trước vấn nạn “ô nhiễm trắng” và vi nhựa nguy cơ lan rộng và đe dọa sự sống của biển nước ta. Đó cũng chính nhiệm vụ của thể chế!

Nhìn vào cơ cấu nền kinh tế Việt Nam 6 tháng đầu năm 2020, khi khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm tỷ trọng 14,16%; khu vực công nghiệp và xây dựng chiếm 33,44%; khu vực dịch vụ chiếm 42,04%; thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm chiếm 10,36% so với cơ cấu tương ứng của cùng kỳ năm 2019 là: 13,54% - 34,20% - 42,03% - 10,23%... Dự báo năm 2025, mức tăng trưởng GDP khu vực nông nghiệp trung bình đạt từ 3 - 3,5%, có thêm 5 mặt hàng nông nghiệp xuất khẩu có giá trị từ 1 tỷ USD trở lên để đưa Việt Nam có 15 nhóm mặt hàng nông sản có giá trị xuất khẩu 1 tỷ USD trở lên, với tổng giá trị xuất khẩu khoảng 50 tỷ USD, đứng đầu ASEAN và đứng top 10 của thế giới… từ khai thác, nuôi trồng thủy sản và canh tác nông nghiệp. Thực tế và mục tiêu đó càng cho thấy kinh tế nông nghiệp và kinh tế biển, hơn bao giờ hết, cấp bách gắn bó thành chỉnh thể và tất yếu trở thành “đôi chân” để đất nước nhịp bước vững vàng và hội nhập thế giới. Đó phải là sự lựa chọn và phát triển song hành, cân đối, hài hòa và hiệu quả từ nền móng để đất nước phát triển, bứt tốc và có thể cất cánh. 

Đó là lựa chọn phát triển công nghệ cao trước hết và trực tiếp làm động lực cho công nghiệp dịch vụ nông nghiệp và kinh tế biển, phát triển biển; phát triển mạnh mẽ công nghiệp phụ trợ, công nghiệp điện tử, công nghiệp dịch vụ kinh tế biển và công nghiệp du lịch dựa trên nền tảng công nghệ số và trí tuệ nhân tạo.

Thực tiễn đã và đang hối thúc việc lựa chọn phát triển công nghệ cao trước hết và trực tiếp làm động lực cho công nghiệp dịch vụ nông nghiệp và kinh tế biển, phát triển biển.

    Nổi bật
        Mới nhất
        Bài 4: Đột phá phát triển kết cấu hạ tầng
        • Mặc định
        POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO