TS. Nhị Lê
Nguyên Phó Tổng Biên tập Tạp chí Cộng sản
Toàn bộ cuộc đổi mới chính trị, dù được hoạch định và tổ chức thực thi hoàn bị bao nhiêu mà không có sự tham dự của Nhân dân, chắc chắn rất khó thành công. Hơn bao giờ hết, kinh nghiệm của thế giới hai thế kỷ qua cho thấy, thế giới càng toàn cầu hóa thì vấn đề dân tộc đối với mỗi quốc gia càng nổi lên như một mệnh đề quan thiết. Do đó, xử lý vấn đề dân tộc vì sự phát triển toàn cầu và chủ động tiên lượng nắm lấy tổng thể sự vận động toàn cầu để giải quyết cụ thể, thiết thực những công việc của dân tộc đang trở thành mệnh lệnh hành động song trùng một cách tự nhiên.
Đổi mới kinh tế là trung tâm thông qua đổi mới văn hóa
Định vị chiến lược đất nước không có con đường nào khác tốt hơn là, chủ nghĩa dân tộc Việt Nam, dưới ngọn cờ của Đảng, phải trở thành động lực căn bản và to lớn đối với tiến trình phát triển của đất nước, trong tương lai. Về vấn đề này, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho chúng ta một bài học lớn khi Người khẳng định: “Chủ nghĩa dân tộc là một động lực lớn của đất nước”(3); và rằng “Trong tình hình quốc tế hiện nay, những đặc điểm dân tộc và những điều kiện riêng biệt ở từng nước ngày càng trở thành nhân tố quan trọng trong việc vạch ra chính sách của mỗi Đảng Cộng sản và Đảng công nhân… Dân tộc Việt Nam chẳng hạn phải vạch ra những phương pháp và những biện pháp riêng của mình”(4).
Xung quanh vấn đề này, có 2 phương diện cần nhận diện và xác quyết. Một là, vị thế địa - chiến lược của đất nước đã ban tạo cho dân tộc ta cơ hội và thực lực kiến tạo, phát triển một nền văn hóa bản sắc, hiện đại Việt Nam, nhưng xử lý ra sao trước vấn đề giao thoa và tiếp biến văn hóa thế giới nhằm tiếp tục xây dựng, phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, dân tộc và hiện đại - nền tảng tinh thần xã hội Việt Nam thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế.
Hai là, ở vị thế địa - văn hóa, chúng ta chống xâm lăng văn hóa và văn hóa hóa văn hóa xâm lăng một cách chủ động, nhằm nâng cao sự tự đề kháng của văn hóa Việt Nam trong cuộc toàn cầu hóa trước mọi thứ văn hóa xâm lăng, nô dịch. Một nền văn hóa Việt Nam không rập khuôn, không dịch chuyển, khác với tất cả các nền văn hóa khác - đó là nền văn hóa trong thời kỳ đổi mới và hội nhập cần hướng tới và kiên quyết xây dựng.
Theo lộ trình phát triển đất nước, dưới ngọn cờ của Đảng, công cuộc đổi mới với đột phá đổi mới tư duy, Việt Nam đổi mới kinh tế là trung tâm thông qua đổi mới văn hóa, tức bằng tư duy chính trị và các quyết sách chính trị mang tầm văn hóa.
Theo một nghĩa nào đó, văn hóa là cội nguồn của mọi mục đích và động cơ phát triển đối với chính trị, kinh tế, xã hội và các phương diện khác. Điều đó càng cho thấy, không chỉ về quy mô, mức độ, đặc biệt về tính chất của văn hóa, vị thế, chức năng, nhiệm vụ của văn hóa mà bản thân của văn hóa xuyên thấm trong toàn bộ các phương diện của đời sống chính trị, kinh tế và xã hội. Từ đổi mới, càng cho thấy văn hóa thực sự là nền tảng tinh thần xã hội, là gương mặt và tâm hồn, cốt cách và khí phách của dân tộc, là tấm "căn cước" Việt Nam trong hội nhập quốc tế hiện nay và tương lai.
Có thể nói, đó là văn hóa của sự phát triển mạnh mẽ và bền vững Việt Nam, chứ không đơn thuần là tăng trưởng một cách cơ học. Qua đổi mới, một triết lý của sự phát triển toàn diện, bền vững nói chung, sự tăng trưởng kinh tế và phát triển của văn hóa, trong một tổng thể phát triển thống nhất, hài hòa, mạnh mẽ, bền vững của đất nước theo định hướng XHCN đang phát triển, với con người là hạt nhân của mọi sự phát triển, nhân tố quyết định vị thế chính trị, sức mạnh và danh dự Việt Nam trên vũ đài quốc tế.
Nhân dân là nguồn gốc của mọi sức mạnh của dân tộc. Lực lượng toàn dân là lực lượng vĩ đại hơn hết và không ai chiến thắng được. Sức Dân, tài Dân, khát vọng và liêm sỉ của Nhân dân làm nên Quốc sỉ, vị thế, sức mạnh và uy tín đất nước Việt Nam mấy nghìn năm qua mà đỉnh cao là 40 năm Đổi mới! Đó chính là văn hóa. Không ai không thấy, sức mạnh dân tộc kết tinh trong công cuộc đổi mới chuyển mình lịch sử mang tầm văn hóa: Đảng ta hành động hợp quy luật và hợp lòng Dân và đã làm rạng rỡ và vẻ vang Quốc thể Việt Nam, dưới ngọn cờ của Đảng.
Đó là thách thức chủ yếu trong cuộc kiến tạo văn hóa chính trị, văn hóa kinh tế, văn hóa ngoại giao Việt Nam… góp phần làm nên bản lĩnh chính trị, thực lực văn hóa Việt Nam, trong bối cảnh hiện nay, trực tiếp phát triển nền tảng tinh thần xã hội, tạo nên xung lực mới của công cuộc đổi mới chính trị song hành đổi mới kinh tế một cách đồng bộ, thống nhất.
Mặt khác, đó cũng chính là khâu đột phá ngõ hầu góp phần gìn giữ và phát triển môi trường chính trị - xã hội - kinh tế quốc tế hiện đại, ở khu vực hay trên tầm vóc toàn cầu, mà chúng ta phải tiến hành một cách đồng bộ, thống nhất và hiệu quả.
Phát triển thống nhất nhưng đa dạng, sinh động
Trước hết, cần giải quyết thách thức phát triển đồng bộ và trọng điểm. Trong suốt hai thập kỷ qua, Việt Nam ở chừng mực nào đó mới “dịch vụ hóa” nền kinh tế chứ chưa phải “công nghiệp hóa”, “hiện đại hóa” một cách đồng bộ. Nó là hậu quả trực tiếp khiến cho nhiều mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước vào năm 2020 chưa hoàn thành.
Trước đòi hỏi, Việt Nam phải nắm lấy “thế kỷ của đại dương”. Thực tiễn cũng đang hối thúc rằng, chúng ta coi một trong những quốc sách hàng đầu là phát triển nông nghiệp, song chưa có kế sách chiến lược gắn với biển, kinh tế biển và phát triển biển. Và đầu tư cho các lĩnh vực nông nghiệp và biển trong tổng đầu tư ngân sách quốc gia chưa thực sự ngang tầm, lại rất ít liên quan một cách tương xứng với biển, kinh tế biển và kinh tế nông nghiệp. Do đó, công nghiệp hóa trên các lĩnh vực quốc sách này đã không tiến bước như mong đợi.
Vì sao như vậy? Là một quốc gia biển, Việt Nam không thể không đứng vững trên lợi thế cạnh tranh và lợi thế so sánh này. Là một quốc gia nông nghiệp, với 100 triệu dân, thì “nông vi bản” phải vững mạnh và gắn chặt với biển, làm “đường băng” để đất nước cất cánh. Đó phải là chiến lược phát triển mang tầm nhìn thế kỷ, không chỉ về kinh tế mà rộng và sâu hơn mệnh hệ tới chính trị là độc lập chủ quyền quốc gia và an sinh xã hội căn bản. Đó phải là sự lựa chọn và phát triển song hành, cân đối, hài hòa và hiệu quả từ nền móng, để đất nước bước vào kỷ nguyên mới.
Từ thành công những năm qua (ba đột phá chiến lược) và vận hội phát triển kinh tế tri thức của thời đại mang lại, nhất là từ địa - kinh tế, có 2 phương diện chúng ta cần nắm lấy, với phương châm phát triển “rút ngắn”.
Một, lựa chọn phát triển công nghệ cao trước hết và trực tiếp làm động lực cho công nghiệp dịch vụ nông nghiệp và kinh tế biển, phát triển biển. Chúng ta không thể không đột phá, mở lối đi thẳng vào phát triển khoa học công nghệ, trước hết là công nghệ cao. Đây là cái then mở cửa để gia nhập nhanh và sâu vào nền kinh tế thế giới hiện đại; là con đường ngắn nhất để định vị mới, tạo lập thương hiệu cho nền nông nghiệp Việt Nam; là động lực quan trọng tiếp tục phát triển và hoàn thiện nền kinh tế thị trường trên lĩnh vực này.
Nhưng, công nghệ cao không bất biến, nên phải lấy giá trị phát triển làm đầu tiên và cốt lõi, bảo đảm tương dung và đứng trong chuỗi giá trị toàn cầu. Tức là đẳng cấp của nền nông nghiệp. Năm 2019, tốc độ tăng trưởng GDP khu vực nông nghiệp đạt 3%, nhất là kim ngạch xuất khẩu nông lâm thủy sản đạt trên 43 tỷ USD - dù là kỷ lục xưa nay, song chưa tương xứng tiềm năng. Vì, sự tham dự của công nghiệp với nông nghiệp nhằm đẩy mạnh tốc độ công nghiệp hóa nông nghiệp trong sản xuất của nông nghiệp, chế biến và xuất khẩu từ nông nghiệp liệu đã thực sự trở thành chuỗi giá trị, xứng đáng với tiềm lực chưa? Vì, dư địa phát triển một nền nông nghiệp xanh, nông nghiệp sạch với các sản phẩm chủ lực… vẫn đang bỏ ngỏ hoặc khai thác chưa xứng tầm? Vì thế, công nghiệp phục vụ nông nghiệp, công nghiệp hóa nông nghiệp, kinh tế biển… cần cấp bách nhận thức lại và ưu tiên xứng đáng.
Thời cơ và thực lực cho phép chúng ta không nhất thiết đi tuần tự trên địa hạt này. Nhưng, công nghệ cao, theo thời gian, sẽ lạc hậu, nên phải lấy giá trị phát triển làm đầu tiên và cốt lõi. Tức là vấn đề kiến tạo đẳng cấp của nền kinh tế nông nghiệp, rộng hơn là nền kinh tế quốc gia phải được xác quyết trong chuỗi giá trị toàn cầu, trên lộ trình hội nhập quốc tế.
Hai, phát triển mạnh mẽ công nghiệp phụ trợ, công nghiệp điện tử, công nghiệp dịch vụ kinh tế biển và công nghiệp du lịch dựa trên nền tảng công nghệ số và trí tuệ nhân tạo. Đây là sự lựa chọn với lợi thế của nước đi sau và thực sự phù hợp với chúng ta, xét về địa - kinh tế, địa - xã hội, trong việc lựa chọn những ngành, lĩnh vực trong chuỗi giá trị toàn cầu, cho riêng mình. Trước hết, biển và phát triển biển là một lĩnh vực trong việc phát triển công nghiệp phụ trợ.
Phát triển công nghiệp dịch vụ và du lịch là một trong những sự lựa chọn mang tính cứu cánh trong tổng thể phát triển công nghiệp theo hướng hiện đại của mục tiêu phát triển chiến lược đất nước. Dự báo cho thấy, công nghiệp dịch vụ chính là phương tiện để chúng ta có thể đi khắp thế giới, là hướng đi phù hợp với đất nước chúng ta và thế giới tới Việt Nam.
Theo đó, phát triển mạnh mẽ công nghiệp dịch vụ kinh tế biển và du lịch trong thế liên thông tổng thể với kinh tế nông nghiệp, dựa trên nền tảng công cụ kinh tế số và trí tuệ nhân tạo. Đây là sự lựa chọn với lợi thế của nước đi sau và thực sự phù hợp. Công nghiệp dịch vụ chính là phương tiện để nền nông nghiệp có thể “đi” khắp thế giới, là hướng đi phù hợp với đất nước ta; và thu hút thế giới “đến” với Việt Nam, qua nông nghiệp. Thách thức đó đòi hỏi, cần có 25.000 doanh nghiệp trực tiếp đầu tư vào nông nghiệp, gấp 2 lần hiện nay; 35.000 hợp tác xã nông nghiệp, gấp 2,3 lần hiện nay; để làm nòng cốt trong cuộc cơ cấu lại nông nghiệp; hơn 80% số xã đạt chuẩn nông thôn mới; thu nhập của nông dân đạt 80 triệu đồng/năm, gấp 2 lần hiện nay.
Vấn đề quan trọng là, hoạch định lộ trình chiến lược từ các vùng kinh tế tới tổng thể nền kinh tế quốc gia, lựa chọn phương thức thực thi và xác định nhịp độ phù hợp phát triển nông nghiệp, không thể nôn nóng, nhưng càng không thể chậm chạp. Tất cả phải tuân thủ dưới sự điều hành của “nhạc trưởng” trên tầm vĩ mô và chiến lược: Nhà nước.
(3) Hồ Chí Minh: Toàn tập,Sđd, 2011, t.1, tr.511.
(4) Hồ Chí Minh: Kết hợp chặt chẽ lòng yêu nước với tinh thần quốc tế vô sản, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1976, tr.126-127.