Bài 2: Ưu tiên phát triển năng lượng tái tạo
“Xây dựng cơ chế, chính sách đột phá để khuyến khích và thúc đẩy phát triển mạnh mẽ các nguồn năng lượng tái tạo nhằm thay thế tối đa các nguồn nhiên liệu hóa thạch” là một trong những giải pháp trọng tâm của Nghị quyết 55-NQ/TW về định hướng Chiến lược phát triển năng lượng quốc gia của Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 (Nghị quyết 55). Các chuyên gia cho rằng, cần có cơ chế rất rõ ràng, mang tính chắc chắn và lâu dài về mặt chính sách nhằm thu hút đầu tư, phát triển năng lượng tái tạo.
Có thể hiện thực hóa mục tiêu
“Nghị quyết đã thỏa mãn mối quan tâm của chúng tôi khi nhấn mạnh ưu tiên phát triển năng lượng tái tạo”, Giám đốc Trung tâm Phát triển sáng tạo xanh (GreenID) Ngụy Thị Khanh cho biết. Bà Khanh phân tích, Nghị quyết 55 nêu rõ: “Bảo đảm vững chắc an ninh năng lượng quốc gia là nền tảng, đồng thời là tiền đề quan trọng để phát triển kinh tế - xã hội. Ưu tiên phát triển năng lượng nhanh và bền vững, đi trước một bước, gắn với bảo vệ môi trường sinh thái”. Điều này thể hiện mối quan tâm đặc biệt của các nhà lãnh đạo cấp cao đối với an toàn an sinh và sinh thái môi trường. Đáng chú ý, Nghị quyết ghi: “có lộ trình để giảm nhiệt điện than một cách hợp lý”, “phải có chính sách đột phá để phát triển năng lượng tái tạo nhằm thay thế tối đa các nguồn nhiên liệu hóa thạch”. “Lần đầu tiên chúng tôi thấy có sự chỉ đạo quyết liệt đến vậy”, bà Khanh nhận xét.
![]() Mục tiêu phát triển năng lượng tái tạo theo Nghị quyết 55 có thể đạt được |
Còn theo chuyên gia năng lượng độc lập Ngô Đức Lâm, Nghị quyết 55 đã nhìn thẳng vào thực tế, đánh giá đúng những bất cập mà ngành năng lượng đang vướng mắc. Hiện nay, tỷ trọng nhiệt điện than quá cao so với các nguồn khác (về công suất chiếm tới 49%, về sản lượng tới 53%). Trong khi đó, nhiệt điện than bộc lộ nhiều nhược điểm như: Gây ô nhiễm môi trường, thiếu vốn để xây dựng nhiệt điện, phải nhập khẩu nguyên liệu từ nước ngoài đắt đỏ… “Thế giới đang tích cực giảm dần năng lượng nhiệt điện than và sử dụng các dạng năng lượng mới tái tạo, chúng ta đi ngược lại là khó chấp nhận”, ông Lâm nói.
Ông Lâm dẫn số liệu Bộ Công thương năm 2019 cho biết, trong 62 dự án xây dựng nhiệt điện than chỉ có 15 dự án đạt tiến độ còn 47 dự án chậm hoặc chưa xác định tiến độ. Trong khi đó, Bộ Công thương dự báo, khả năng cao sẽ thiếu điện ngay trong năm nay thì việc trông chờ vào nhiệt điện than là không khả thi. Mặt khác, than trong nước không đủ mà phải nhập khẩu theo kiểu “ăn đong từng bữa” không có chiến lược nhập khẩu than về lâu dài. “Điều này không ổn chút nào, cần phải thay đổi theo hướng thúc đẩy phát triển năng lượng tái tạo, giảm dần nhiệt điện than theo lộ trình”, ông Lâm nhấn mạnh.
Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu năng lượng và tăng trưởng xanh Hà Đăng Sơn cho rằng, theo quy hoạch điện cũ chúng ta thiên về phát triển điện than vì điều kiện về chi phí, công nghệ và dựa vào thời điểm xây dựng quy hoạch điện. Tuy nhiên, khi công nghệ mới như điện gió, điện mặt trời trở nên khá phổ biến và hợp lý hơn thì việc cân đối và điều chỉnh lại tổng cơ cấu nguồn điện với năng lượng tái tạo là điều kiện rất quan trọng để bảo đảm tính chủ động của nguồn điện, tăng cường tính tự chủ của nước ta về nguồn cung năng lượng, bảo đảm được an ninh năng lượng và cải thiện về môi trường.
Tuy nhiên, theo GS.TS Trần Đình Long, Phó Chủ tịch Hội Điện lực Việt Nam, mặc dù bộc lộ nhiều nhược điểm, nhưng 10 - 15 năm tới nhiệt điện than vẫn giữ vai trò quan trọng vì chưa có nguồn điện khác đủ khả năng để thay thế. Cũng theo ông Long, tỷ lệ các nguồn năng lượng tái tạo trong tổng cung năng lượng sơ cấp đạt khoảng 15 - 20% vào năm 2030; 25 - 30% vào năm 2045 được đưa ra trong Nghị quyết 55 tương đối cao so với năng lực của nước ta, tuy nhiên với sự cố gắng của các bộ, ngành cùng với những chính sách khuyến khích của Chính phủ mục tiêu trên có khả năng trở thành hiện thực.
Cần có nguồn điện dự phòng
Đánh giá về dư địa phát triển năng lượng tái tạo trong nước, ông Hà Đăng Sơn cho rằng, tiềm năng của nước ta rất lớn khi có bờ biển dài rất phù hợp phát triển điện gió và nhiều vùng quanh năm có nắng, thuận lợi phát triển năng lượng mặt trời. “Nhưng tiềm năng đó có được khai thác hiệu quả, bền vững không thì không chỉ liên quan đến kỹ thuật, nguồn vốn, mà còn về mặt thể chế”, ông Sơn nói.
Trong phần nhiệm vụ và giải pháp, Nghị quyết 55 nêu rõ, đối với điện gió và điện mặt trời “ưu tiên phát triển phù hợp với khả năng bảo đảm an toàn hệ thống với giá thành điện năng hợp lý; khuyến khích phát triển điện mặt trời áp mái và trên mặt nước; xây dựng các chính sách hỗ trợ và cơ chế đột phá cho phát triển điện gió ngoài khơi gắn với triển khai thực hiện Chiến lược biển Việt Nam”. Thực tế, thời gian qua, Chính phủ đã có sự quan tâm, khuyến khích thích đáng để phát triển nguồn năng lượng này, chẳng hạn như mua điện mặt trời với giá 9,35 cent/kWh, nhờ đó đã thúc đẩy nhiều dự án về điện mặt trời, điện gió. “Tuy nhiên, chúng ta đang bị chậm trễ trong việc ban hành chính sách. Bộ Công thương rất nhiều lần đề xuất cơ chế, trong đó có những chương trình, quyết định thúc đẩy phát triển điện mặt trời áp mái để trở nên phổ biến và để áp dụng cắt giảm phụ tải ngay tại nơi sử dụng. Song, đến nay chưa thấy có thông tin nào rõ ràng liên quan đến cơ chế giá để mua điện dư từ các dự án điện áp mái sẽ như thế nào”, ông Sơn cho hay.
Để phát triển năng lượng tái tạo, thách thức lớn nhất là vốn. Nguồn vốn đầu tư công hạn chế nên phải dựa vào khối tư nhân nhưng theo các chuyên gia, nhà đầu tư sẽ đặt mục tiêu thu hồi vốn, lợi nhuận lên hàng đầu và đòi hỏi những chính sách ổn định. Vì vậy, để thu hút nhà đầu tư, cần có cơ chế và cam kết rõ ràng, nhất quán, thể hiện được tầm nhìn, đặc biệt là chính sách giá điện.
Bên cạnh đó, Chính phủ cần có lộ trình triển khai minh bạch hơn trong xây dựng các quy hoạch, bổ sung quy hoạch cấp phép cho dự án và có định hướng nghiên cứu phát triển, tiếp nhận chuyển giao công nghệ. Ngoài ra, các dự án năng lượng tái tạo phụ thuộc vào thời tiết nên vẫn có những rủi ro khi phối hợp trong lưới điện, bởi vậy khi triển khai dự án điện gió, điện mặt trời phải kèm theo nguồn điện dự phòng để xử lý sự cố, cân bằng phụ tải.