Bài 2: Đột phá về thể chế chính trị, kinh tế và xã hội

TS Nhị Lê -  Nguyên Phó Tổng biên tập Tạp chí Cộng sản 07/03/2022 06:37

Xung quanh việc lựa chọn đột phá chiến lược, nổi bật ba khâu đột phá hay ba “mắt xích” của sợi dây chuyền tổng thể, cần phải nắm lấy. Trước hết, đó là đột phá về thể chế chính trị, kinh tế và xã hội. Trong công cuộc đổi mới, sau định vị quốc gia, trước hết và trung tâm là vấn đề thể chế.

Bốn nhân tố rường cột

Kinh nghiệm lịch sử hơn 35 năm đổi mới vừa qua càng cho thấy, không nhận diện đúng về đổi mới thể chế chính trị, kinh tế, xã hội… và những vấn đề xung quanh chúng, không thể nói tới vấn đề đổi mới đúng, trúng và hiệu quả các phương diện trên, trong đời sống chính trị - xã hội và đối ngoại của đất nước. Liên quan tới công cuộc này, có thể nói, bao hàm 4 nhân tố rường cột cấu thành thể chế đất nước và chi phối việc đổi mới thể chế: thể chế kinh tế giữ vai trò nền tảng; thể chế chính trị giữ vị thế trung tâm; thể chế xã hội giữ vai trò động lực chủ yếu; và thể chế chính trị quốc tế giữ vai trò động lực quan trọng.

Do đó, một cách tự nhiên, không kiến tạo và đổi mới các thể chế liên quan tới thể chế một cách đồng bộ, chúng ta không thể đổi mới thể chế chính trị như mong muốn, càng không thể đổi mới thể chế kinh tế… trên tầm quốc gia một cách toàn diện, đồng bộ, thống nhất và tương xứng. Vì, các phương diện kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa, nói như Chủ tịch Hồ Chí Minh từ hơn 60 năm trước, trong cuộc kiến thiết nước nhà, “phải được chú ý đến” và cần “coi trọng ngang nhau” một cách tổng thể và hài hòa.

Nhưng vấn đề đặt ra ở đây là, xử lý mối quan hệ tổng thể đó như thế nào? Điều đó lại hoàn toàn tùy thuộc vào việc lựa chọn thứ tự ưu tiên các vấn đề phù hợp với điều kiện lịch sử cụ thể. Ở vào thời khắc chúng ta khởi động công cuộc đổi mới tháng 12.1986, kinh nghiệm lựa chọn đổi mới tư duy, trước hết là tư duy kinh tế, giải quyết sự khủng hoảng kinh tế đất nước nổi lên cấp bách, là ưu tiên số một; đồng thời, chủ động giải quyết đồng bộ các vấn đề khác, đã để lại một bài học lớn về phương pháp luận và tổ chức thực tiễn, trên phương diện này, cho hiện nay và tương lai về lựa chọn khâu đột phá.    

Vì vậy, hiện nay, khi công cuộc đổi mới trải qua hơn 35 năm, vấn đề tiếp tục đột phá đổi mới về thể chế, trước hết bảo đảm chính trị đồng bộ với kinh tế và xã hội trở nên cấp thiết trong tổng hòa sự nghiệp đổi mới toàn diện, đồng bộ, tạo động lực bứt phá về kinh tế, phát triển xã hội làm nền tảng công cuộc đổi mới một cách mạnh dạn và kiên quyết, với xung lực của cuộc cách mạng 4.0 và trí tuệ nhân tạo, trong hội nhập quốc tế. Đổi mới để phát triển thể chế! Và, thể chế vì Đổi mới và pháp quyền! Đó là biện chứng của sự phát triển của công cuộc đổi mới hiện nay. Nói cách khác, đó là toàn bộ các “mắt xích” quan trọng nhất trong toàn bộ sợi dây chuyền sự nghiệp đổi mới sau hơn 35 năm mà chúng ta phải ưu tiên đột phá, nếu muốn tạo nên cú “huých” đối với sự phát triển một cách chủ động, toàn diện và đồng bộ công cuộc đổi mới, trong tầm nhìn trước mắt tới năm 2030.

Kinh tế - xã hội song hành, đồng bộ với chính trị, văn hóa

Trong đột phá về thể chế, không thể không kiến thiết và phát triển môi trường kinh tế - xã hội song hành và đồng bộ với môi trường chính trị - văn hóa Việt Nam. Đến lượt nó, thể chế là bảo đảm sự tự do phát triển kinh tế - xã hội, sự tự do và sáng tạo vô hạn của nhân tố con người một cách pháp quyền và dân chủ. 

Không một cuộc vận động chính trị nào có thể thành công, nếu không xây dựng thành công môi trường xã hội - chính trị tương dung và lôi cuốn toàn xã hội tham gia. Công cuộc đổi mới toàn diện, đồng bộ của chúng ta càng đòi hỏi như vậy. Toàn bộ công cuộc đổi mới, dù được hoạch định và tổ chức thực thi hoàn bị bao nhiêu mà không có sự tham dự của nhân dân đông đảo, chắc chắn rất khó thành công, nếu không nói cầm chắc thất bại. Nghĩa là không để ai có thể “đứng ngoài chính trị”, dưới bất cứ hình thức nào.       

Giữa thế giới toàn cầu hóa, bản sắc dân tộc Việt Nam phải trở thành tấm căn cước dân tộc trong cuộc chủ động hội nhập toàn cầu. Không có căn cước thì rất dễ bị hòa tan, thậm chí vô hình biến thành “sân sau”, trở thành nô lệ cho người khác, dù ngoài ý muốn. Linh đơn của tấm căn cước ấy không gì khác là văn hóa Việt Nam. Vì, để trở thành một cường quốc kinh tế, người ta chỉ cần từ 30 - 50 năm, nhưng để có một nền văn hóa phải cần tới cả nghìn năm.

Dân tộc không thể bị đồng hóa, bởi văn hóa Việt Nam làm nền móng cho sự tồn tại tinh thần độc lập dân tộc. Không một ai không thấy điều đó. Xung quanh vấn đề này, có 3 phương diện nổi bật cần nhận diện, xác quyết và tập trung giải quyết. 

Một là, vị thế địa - chính trị chiến lược của đất nước đã ban tạo cho dân tộc ta cơ hội và thực lực kiến tạo, phát triển một nền văn hóa Việt Nam bản sắc và hiện đại, thâu hóa tinh hoa văn hóa nhân loại để làm giàu cho mình. Nhưng xử lý ra sao trước vấn đề giao thoa văn hóa, an ninh văn hóa và tiếp biến, hấp thụ tinh hoa văn hóa thế giới nhằm tiếp tục xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, dân tộc và hiện đại - nền tảng tinh thần xã hội Việt Nam thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế trong một “thế giới phẳng” và không phẳng. Văn hóa là nền tảng, văn hóa là sự khác biệt, sức mạnh văn hóa Việt Nam nằm ở chính chỗ này, chứ không phải là sự rập khuôn, lai căng, nguy cơ mất gốc. Điều này không hề đối lập với tinh thần tiếp biến, giao lưu văn hóa quốc tế, để làm phong phú và khẳng định chỗ đứng của văn hóa trong xu thế hội nhập toàn cầu. 

Hai là, ở vị thế địa - văn hóa, địa - quốc phòng, chúng ta chống xâm lăng văn hóa, nhưng đồng thời Việt hóa văn hóa xâm lăng một cách chủ động, nhằm nâng cao sự tự đề kháng và an ninh của văn hóa Việt Nam trong cuộc toàn cầu hóa trước mọi thứ văn hóa xâm lăng, nô dịch tới từ bất cứ phía nào. Một nền văn hóa Việt Nam không dịch chuyển, khác với tất cả các nền văn hóa khác, thích ứng với mọi thay đổi - đó là nền văn hóa trong thời kỳ đổi mới và hội nhập cần hướng tới và kiên quyết xây dựng. Chỉ có như thế, dân tộc mới đứng vững, cho dù sóng gió của cuộc hội nhập thế giới có thách thức “mất, còn” đối với dân tộc thế nào, cho dù những đợt sóng của cuộc “động đất lịch sử” khi các chế độ XHCN ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ những năm đầu thập kỷ 90 của thế kỷ XX, những cuộc khủng hoảng tài chính kinh tế toàn cầu những năm 1998, 2008 có dập vùi đe dọa “sinh, tử” đất nước tới đâu. Đất nước đứng vững và phát triển cũng một phần vì đó và nhờ đó.

Ba là, vấn đề văn hóa đạo đức trong phát triển kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế. Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: Chính trị lúc này là đạo đức. Một môi trường phi đạo đức là môi trường phi chính trị, phi kinh tế. Càng phát triển kinh tế thị trường, càng hội nhập quốc tế, trực tiếp là hội nhập kinh tế, chúng ta càng cần đạo đức Việt Nam tỏa sáng, một thành tố của kinh tế, bảo đảm phát triển kinh tế và trở thành lực lượng kinh tế. Giáo dục và thực hành đạo đức trong Đảng lan tỏa trong toàn xã hội, tạo cơ sở, nền tảng và môi trường để xây dựng đạo đức trong Đảng và xây dựng Đảng về đạo đức, trực tiếp phát huy giá trị văn hóa đạo đức, văn hóa, nhất là văn hóa chính trị, văn hóa kinh tế theo các đặc trưng của văn hóa, các giá trị nhân cách của con người Việt Nam truyền thống và hiện đại. Nếu không chung sức vun đắp xây dựng một nền văn hóa cao cả về tầm nhìn, uyên bác về trí tuệ, cao quý về nhân văn, cao thượng về nhân cách và mỗi người Việt Nam luôn khắc sâu trong tâm khảm mình tình yêu thương đồng bào, có trách nhiệm với Tổ quốc, với nhân loại thì chắc chắn chúng ta khó có thể nói tới một Việt Nam phát triển phồn vinh, bền vững và nhân văn. Văn hóa hóa kinh tế, văn hóa hóa con người!

Không có văn hóa Việt Nam dân tộc và hiện đại chúng ta sẽ không có gì cả, càng không thể nói tới công việc đổi mới chính trị, kinh tế hay bất cứ phương diện nào khác, như mong muốn! Văn hóa là nền móng căn bản, là nguồn lực chiến lược cho phát triển đất nước ta trong thế kỷ XXI. Và điều lớn nhất là, xây dựng hình ảnh Việt Nam trên trường quốc tế trở thành thương hiệu quốc gia đặc sắc, nhưng có giá trị vật chất đặc biệt, riêng có, mang bản sắc Việt Nam.

Đó là thách thức chủ yếu trong cuộc kiến tạo và phát triển môi trường văn hóa chính trị, văn hóa kinh tế, văn hóa đạo đức, văn hóa ngoại giao Việt Nam… góp phần làm nên bản lĩnh chính trị Việt Nam, sức mạnh văn hóa Việt Nam, trong bối cảnh hiện nay, trực tiếp phát triển nền tảng tinh thần xã hội, tạo nên xung lực mới của công cuộc đổi mới. Mặt khác, đó cũng chính là khâu đột phá ngõ hầu góp phần gìn giữ và phát triển môi trường chính trị - xã hội - kinh tế quốc tế hiện đại, ở khu vực hay trên tầm vóc toàn cầu, mà chúng ta phải tiến hành một cách đồng bộ và thống nhất.

Thể chế mà chúng ta đột phá và đổi mới đó chính là sự tổng hòa của cơ chế và những định chế về chính trị, kinh tế và xã hội mang tính pháp quyền, để vận hành quốc gia XHCN một cách độc lập và cụ thể.

Nói khái lược, sự đột phá đổi mới thể chế mà chúng ta phải nắm lấy như một công cụ và hành động một cách chủ động, kiên định, mạnh mẽ một cách tự do, dân chủ và pháp quyền nhằm bảo đảm phát triển công cuộc đổi mới toàn diện, đồng bộ hiện nay và tương lai một cách độc lập, sáng tạo và phù hợp với thông lệ, luật pháp quốc tế.  

    Nổi bật
        Mới nhất
        Bài 2: Đột phá về thể chế chính trị, kinh tế và xã hội
        • Mặc định
        POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO