Bài 1: Bất cập cần tháo gỡ
Thực tiễn, việc ban hành nghị quyết về những vấn đề quan trọng của HĐND các cấp đã có nhiều đổi mới phù hợp, lựa chọn đúng, quyết định nhiều vấn đề cử tri và nhân dân quan tâm. Quy trình, trình tự xem xét ban hành cơ bản bám quy định. Việc thẩm tra dự thảo nghị quyết thực hiện khá chặt chẽ. Tuy nhiên, quá trình quyết định các vấn đề quan trọng của địa phương bằng việc ra các nghị quyết vẫn còn những bất cập cần tháo gỡ.
Lúng túng trong lựa chọn hình thức ban hành
Điều này xảy ra chủ yếu ở HĐND cấp huyện và cấp xã, nhất là trong ban hành nghị quyết thường kỳ về nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội; phân bổ dự toán thu, chi ngân sách và vốn đầu tư phát triển, quyết toán ngân sách nhà nước. Thực tiễn dễ nhận thấy, đối với các dạng nghị quyết này, có địa phương ban hành dưới dạng văn bản quy phạm pháp luật, có địa phương ban hành dưới dạng văn bản hành chính thông thường. Ai đúng, ai sai cũng chưa được khẳng định rõ ràng, mặc dù việc này đã được đưa ra nhiều diễn đàn từ cấp cơ sở, thậm chí bàn bạc ở cả cấp trên. Thế nhưng, mỗi ý kiến đều có lý riêng nên đến nay chuyện này vẫn chưa thống nhất.
![]() Đại biểu HĐND thị xã Hồng Lĩnh, Hà Tĩnh thảo luận vào nội dung nghị quyết |
Ảnh: Bình Nguyên |
Đối chiếu với quy định về các yếu tố cấu thành văn bản QPPL thì về thẩm quyền HĐND cấp huyện, cấp xã có thể ban hành nghị quyết là văn bản QPPL nhưng chỉ trong trường hợp được pháp luật giao, tức là kể từ ngày Luật Ban hành văn bản QPPL năm 2015 có hiệu lực (ngày 1.7.2016), HĐND cấp huyện, cấp xã chỉ được ban hành văn bản QPPL khi được giao trong luật, không phải trong các loại văn bản khác, luật không giao thì không được ban hành. Tuy nhiên, khái niệm “pháp luật giao” khá chung chung nên cũng rất khó tìm pháp luật giao nội dung gì để mà ban hành. Vì hệ thống pháp luật Việt Nam chưa hoàn thiện, thường xuyên thay đổi, bổ sung. Bên cạnh đó, việc quyết định các chính sách, quy định để phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh, ngân sách địa phương hầu hết do HĐND tỉnh quyết định, HĐND cấp huyện, cấp xã chỉ triển khai thực hiện nên phần đa nghị quyết của HĐND cấp huyện, cấp xã là cụ thể hóa ở địa phương mình, dưới dạng chấp hành nghị quyết HĐND, quyết định của UBND cấp trên và những gì pháp luật cho phép. Thế nên, việc HĐND cấp huyện, cấp xã ban hành dưới dạng văn bản hành chính thông thường xem ra hợp lí hơn.
Ví dụ như: Giao thu, chi ngân sách do HĐND tỉnh quyết nghị, UBND tỉnh ra quyết định giao về huyện, tùy vào tình hình địa phương để cân đối, nhưng theo Luật Ngân sách nhà nước, việc quyết định ngân sách cấp dưới không được thấp hơn chỉ tiêu cấp trên giao, nhất là đối với chỉ tiêu thu. Mặt khác, trong các nghị quyết này, yếu tố có chứa quy tắc xử sự chung, áp dụng lâu dài (lặp đi lặp lại nhiều lần) hầu như rất ít hoặc không có. Như nghị quyết thu, chi 6 tháng sửa đổi, bổ sung và cuối năm là kết thúc, sang năm ban hành nghị quyết mới...
Ban hành sai thẩm quyền
Ở những nơi Ban HĐND thẩm tra có chất lượng, sẽ chỉ ra được những bất cập, phản biện rõ ràng, giúp cho HĐND quyết nghị đúng nhưng không phải địa phương nào chất lượng thẩm tra của các ban cũng cũng tốt do đó mới “lọt sàng” những quyết sách “trên trời”, hoặc trái thẩm quyền. Khi thảo luận, chất vấn tại kỳ họp, nhiều đại biểu chỉ quan tâm đến nội dung đánh giá kết quả đạt được, các kiến nghị của cử tri mà chưa gắn với sản phẩm của kỳ họp này sẽ ra quyết sách gì. Đến khi thông qua nghị quyết, thời gian bố trí cũng không nhiều, nghiên cứu chưa kỹ nên “nhất trí như UBND trình”. |
Theo quy định tại Khoản 2, Điều 27, Luật Ban hành văn bản QPPL, chỉ có HĐND tỉnh mới có thẩm quyền ban hành chính sách nhằm bảo đảm thi hành Hiến pháp, luật, văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước cấp trên. Thế nhưng, thực tế hiện nay ở một số huyện, thậm chí cấp xã, HĐND vẫn ra nghị quyết ban hành chính sách, đặt ra các quy định mang tính bắt buộc đóng góp. Phần đa các chính sách để có các cơ chế hỗ trợ như: Hỗ trợ phát triển nông nghiệp, xây dựng chỉnh trang đô thị, nông thôn mới, chính sách thu hút nguồn lực,... Có địa phương mặc dù HĐND, UBND tỉnh đã quy định mức thu phí rác thải rắn sinh hoạt, song HĐND cấp xã vẫn ra nghị quyết quy định mức thu cụ thể trên địa bàn thấp hơn so với quy định của cấp tỉnh, với lý do mức sống người dân ở đây thấp hơn...
Lấy ý kiến đóng góp còn hình thức
Việc dự thảo nghị quyết chủ yếu theo ý chí chủ quan của cơ quan soạn thảo, bỏ qua việc khảo sát ý kiến của nhân dân vốn là đối tượng áp dụng, khiến quy định được đưa ra không phù hợp với thực tiễn và bất khả thi. Thực tế cho thấy, bên cạnh những nơi bỏ qua khâu lấy ý kiến, cũng có địa phương tổ chức lấy ý kiến của các cơ quan, tổ chức và các đối tượng chịu tác động của nghị quyết nhưng chưa bảo đảm thời gian theo quy định. Quá trình lấy ý kiến còn hình thức, trách nhiệm của cơ quan tham mưu và đối tượng được lấy ý kiến còn hạn chế.
Cụ thể: Cơ quan tham mưu soạn thảo, lấy ý kiến chủ quan nghĩ làm chuẩn rồi nên đối với cấp huyện thường là phát văn bản giao cho cấp xã thực hiện lấy, cấp xã nghĩ việc đó phối hợp nên có đơn vị làm, đơn vị không, cơ quan tham mưu không đôn đốc, theo dõi. Đến thời hạn, không ai có ý kiến thì coi như là đồng ý; còn đối tượng được lấy ý kiến, có khi không đến nơi nhưng có những đối tượng được tiếp cận thì nghĩ quyết sách đó cũng chẳng liên quan đến mình nên cũng không quan tâm. Đến khi áp dụng rồi, đụng đến quyền lợi mới quay lại hỏi cơ quan ban hành lý do, thậm chí khiếu nại...
Quyết sách không phù hợp
Vẫn còn tình trạng nghị quyết ban hành không thể vận dụng vào thực tiễn. Đơn cử như chính sách hỗ trợ tích tụ ruộng đất trong nông nghiệp quy định “Tổ chức, cá nhân thuê đất sản xuất cây hằng năm để hình thành vùng sản xuất tập trung quy mô tối thiểu đối với lúa 5ha/vùng (liền thửa), thời hạn thuê đất 5 năm trở lên, được hỗ trợ 70% kinh phí thuê đất trong 3 năm đầu, tối đa 10 triệu đồng/ha, thời gian được tính hỗ trợ hàng năm”.
Chính sách này rất khó áp dụng đối với những khu vực phân tán, mà phần đa ở các địa phương vùng núi, khu vực thị xã Hồng Lĩnh rất khó vận dụng vì có nhiều xứ đồng để quy tụ 5ha liền thửa rất khó khăn vì ruộng manh mún. Mặt khác, hộ gia đình sản xuất nông nghiệp cũng không đủ tiềm lực kinh tế để đầu tư mô hình 5ha. Thực tiễn cho thấy, nếu cơ chế này hạ xuống tối thiểu 2ha thì người dân mới có cơ hội tiếp cận chính sách. 2 năm vận dụng chính sách hỗ trợ sản xuất nông nghiệp, chỉ có các tổ chức, hộ dân có tiềm lực mới tận dụng được chính sách này nhưng con số này chỉ đếm trên đầu ngón tay. Riêng tại thị xã Hồng Lĩnh, cả chính sách hỗ trợ theo Nghị quyết HĐND tỉnh và cơ chế hỗ trợ theo Nghị quyết của HĐND thị xã chưa có cá nhân nào đủ điều kiện được hỗ trợ.