Bác đi... Di chúc giục lòng ta(*)
Cho đến Di chúc, đó là một hành trình viết chẵn 50 năm của Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh; một sự nghiệp viết trong tư cách nhà cách mạng, rồi lãnh tụ của dân tộc; trong tư thế một Anh hùng dân tộc và Danh nhân văn hóa thế giới.

Gắn nối 50 năm một sự nghiệp viết không ngừng nghỉ, cả dân tộc và nhân loại từng biết đến Bản án chế độ thực dân Pháp viết bằng tiếng Pháp, của Nguyễn Ái Quốc ở Paris; và Ngục trung nhật ký, viết bằng chữ Hán của Hồ Chí Minh trong các nhà ngục ở Quảng Tây. Và, cố nhiên, một sự nghiệp viết bằng tiếng Việt càng đồ sộ nhiều nghìn trang, gồm văn chính luận, thơ, diễn ca, thư từ, lời kêu gọi... trong đó có các áng văn xuất hiện vào những thời điểm quan trọng hoặc quyết định của lịch sử dân tộc, như những dấu son đánh dấu sự chiếm lĩnh những đỉnh cao, tạo nên những bước ngoặt, hoặc vượt qua những thử thách...
Đó là Thư kêu gọi Tổng khởi nghĩa, tháng 8.1945: “Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc ta đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta. Nhiều dân tộc bị áp bức trên thế giới đang đua nhau tiếp bước giành quyền độc lập. Chúng ta không thể chậm trễ.
Tiến lên! Tiến lên! Dưới lá cờ Việt Minh, đồng bào hãy dũng cảm tiến lên”.
Để, gần như cùng lúc, trên khắp cả nước, từ Bắc vào Nam, là rợp trời cờ đỏ; và trên Quảng trường Ba Đình, sáng 2.9, Tuyên ngôn độc lập - áng văn do chính Hồ Chí Minh thảo với tâm thế sảng khoái nhất trong đời viết của mình, vang lên như Lời non nước, như đồng vọng của Hịch tướng sỹ, Đại cáo bình Ngô...
Đó là Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến 19.12.1946, như khẩu lệnh xuất quân: “Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”.
Đó là Hịch chống Mỹ, trong Hội nghị chính trị đặc biệt, tháng 7.1966: “Chiến tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa. Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố, xí nghiệp có thể bị tàn phá, song nhân dân Việt Nam quyết không sợ. Không có gì quý hơn Độc lập, Tự do. Đến ngày thắng lợi, nhân dân ta sẽ xây dựng lại đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn”.

Hơn 3 năm sau lời hịch chống Mỹ, Bác để lại cho chúng ta áng văn cuối cùng – là Di chúc lịch sử, với “muôn vàn tình thân yêu cho toàn dân, toàn Đảng, cho toàn thể bộ đội, cho các cháu thiếu niên và nhi đồng”. Đây là những căn dặn, là ước nguyện của Bác về những gì thiết cốt nhất cho dân tộc - đó là xây dựng Đảng; là giáo dục Đoàn viên và Thanh niên; là chăm lo cho hạnh phúc của Nhân dân; là quyết tâm đánh Mỹ đến thắng lợi hoàn toàn; là hàn gắn phong trào cộng sản thế giới... Và còn là cả những tâm sự riêng, như được viết trong mục Về việc riêng, chỉ gồm 76 chữ (nếu cộng cả Về việc riêng, thì đoạn này gồm 79 chữ):
“Suốt đời tôi hết lòng hết sức phục vụ Tổ quốc, phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân. Nay dù phải từ biệt thế giới này tôi không có điều gì phải hối hận, chỉ tiếc là tiếc rằng không được phục vụ lâu hơn nữa, nhiều hơn nữa.
Sau khi tôi đã qua đời, chớ nên tổ chức điếu phúng linh đình, để khỏi lãng phí thời giờ và tiền bạc của nhân dân”.
Ta hiểu vì sao, trong nỗi đau mất Bác, cả dân tộc ta và một phần nhân loại tiến bộ, đã đưa tiễn Bác trong nước mắt.
*
* *
Có lẽ do cảm nhận rõ việc sẽ ra đi khó tránh của mình, nên từ tháng 5.1965, Bác đã bắt đầu việc viết Di chúc - một công việc mà Bác gọi là “Tuyệt đối bí mật” được tiến hành rất kín đáo trong nhiều năm, từ 9 giờ sáng ngày 10.5. Tháng Năm năm Kỷ Dậu, theo lời kể của ông Vũ Kỳ, trong Bác Hồ viết Di chúc(1) Bác vẫn tiếp tục công việc như từ 4 năm về trước, vào sáng mồng 10. Lần này có chậm nửa giờ vì buổi sáng Bác phải đến dự khai mạc Hội nghị Trung ương Đảng ở Hồ Tây, có một số cán bộ cao cấp miền Nam ra thăm. Lúc ra về, nhiều cán bộ miền Nam lưu luyến tiễn Bác ra xe, không muốn rời. Bác vẫy tay, căn dặn: “Các chú tranh thủ vào họp tiếp đi. Bàn nhanh lên mà về với dân, với bộ đội”. Đến nhà, ngồi vào bàn từ 9 giờ rưỡi sáng, Bác lại đưa tài liệu “Tuyệt đối bí mật” ra chữa. Năm nào Bác cũng chữa, nhưng năm nay Bác chữa nhiều: bổ sung một số đoạn; thay đổi, thêm bớt nhiều câu chữ phần đầu và giữa, còn phần cuối vẫn giữ nguyên. Chẳng hạn: “Cuộc chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta (dù phải kinh qua gian khổ hy sinh nhiều hơn nữa) nhất định thắng lợi hoàn toàn” - thêm đoạn trong ngoặc đơn. Thay chữ thăm hỏi bằng chúc mừng trong câu “... để chúc mừng đồng bào, cán bộ và chiến sỹ”, và giữ lại chữ thăm hỏi cho đoạn sau - “thăm hỏi các cụ phụ lão, các cháu thiếu niên và nhi đồng”. Thay tuổi bằng xuân trong câu: “Khi người ta đã ngoài 70 xuân”... Đặc biệt, phần Về việc riêng, chỉ với 76 chữ, như đã kể trên, trong các văn bản Bác thảo từ 1965, Bác viết dài hơn.
Trở lại tháng 5.1969, ngày 11, Bác có cuộc thăm Hội nghị cán bộ cao cấp toàn quân. Lo lắng đặt ra cho Ban tổ chức là phải làm sao cho các tướng lĩnh vẫn thấy Bác được khỏe mạnh, không quá yếu trong đi lại, và trong giọng nói. Giọng nói thì khó - đầu năm khi đọc thơ Xuân, Bác đã phải luyện giọng nhiều ngày để cho tiếng nói vẫn rõ, còn đi lại thì đã có cách để giấu, miễn sao tránh không cho thấy Bác đi phải có người dìu. Vậy là, từ nhà sàn sang chỗ gặp gỡ cách 300m ôtô phải vào phía cổng hậu ở cuối đường Xoài, cửa vào thường đóng kín, để trong khi mọi người đang chờ Bác ở cổng chính, thì Bác đã vào và ngồi sẵn ở ghế rồi. Còn khi ra về, trong lúc mọi người còn nấn ná chưa muốn rời Hội trường và Ban tổ chức còn đang lúng túng thì Bác đã đứng dậy, nói to:
“- Tất cả đứng dậy!”
“- Đằng sau, quay! Bước đều, bước!”
Để, đúng vào lúc ấy, khi tất cả mọi người tuân “lệnh” Bác quay lưng đi ra cửa chính, thì Bác được dìu theo cửa sau ra về.
Và đấy là mùa sinh nhật cuối cùng của Bác; là tháng Năm cuối cùng Bác có mặt cùng đồng bào yêu quý của mình, với một Di chúc đã được viết xong. Ngót 4 tháng sau, Bác qua đời. Lễ tang toàn dân tộc và bè bạn năm châu đưa tiễn Bác được tổ chức ở Quảng trường Ba Đình vào 9 giờ sáng ngày 9.9.1969, sau một tuần mưa tầm tã - “Đời tuôn nước mắt, trời tuôn mưa” (Bác ơi!, Tố Hữu).
__________
(*) Thơ Tố Hữu: Theo chân Bác.
(1) Nxb. Sự thật; 1989 và Nxb. Kim Đồng; 2000.