Ba rủi ro “đáng kể” của nợ nước ngoài

Hà Lan 08/06/2019 07:46

Mặc dù quy mô nợ Chính phủ đến cuối năm 2018 được kiểm soát tốt ở mức 50% GDP nhưng các chỉ tiêu chi phí - rủi ro của danh mục nợ, đặc biệt là nợ nước ngoài, có xu hướng kém thuận lợi hơn trước. Đây là thông tin Bộ Tài chính đưa ra tại cuộc họp báo chuyên đề chiều 7.6 về nợ công năm 2018.

5 chỉ tiêu nợ đều trong giới hạn…

Theo thông tin từ Bộ Tài chính, tính đến ngày 31.12.2018, 5 chỉ tiêu nợ đều trong giới hạn cho phép của Quốc hội. Cụ thể, nợ công/GDP ước đạt 58,4% trong khi mục tiêu là dưới 65%. Nợ Chính phủ/GDP đạt 50%, mục tiêu là dưới 54%; Nghĩa vụ trả nợ trực tiếp của Chính phủ/thu ngân sách nhà nước đạt 15,9%, mục tiêu là dưới 25%. Nợ nước ngoài quốc gia/GDP đạt 46%, mục tiêu là dưới 50%. Tương tự, kỳ hạn phát hành trái phiếu Chính phủ bình quân (năm) cũng đạt kế hoạch. 

Mỗi năm, Việt Nam phải trả Trung Quốc ít nhất 650 tỷ đồng tiền vay làm đường sắt Cát Linh - Hà Đông
Mỗi năm, Việt Nam phải trả Trung Quốc ít nhất 650 tỷ đồng tiền vay làm đường sắt Cát Linh - Hà Đông

Cũng theo Bộ Tài chính, trong năm 2018 đã huy động vốn vay trong nước 250,5 nghìn tỷ đồng để đáp ứng nhu cầu bù đắp bội chi ngân sách trung ương và trả nợ gốc, đạt 90,8% so với kế hoạch và chiếm 78,6% cơ cấu vay vốn của Chính phủ. Trong đó, kênh phát hành trái phiếu Chính phủ (TPCP) vẫn tiếp tục đóng vai trò chủ đạo. Giải ngân vốn vay ODA, vay ưu đãi nước ngoài của Chính phủ đạt khoảng 3.010 triệu USD, chiếm 21,4% cơ cấu huy động vốn của Chính phủ. “Việc thực hiện nghĩa vụ trả các khoản trả gốc, lãi của Chính phủ nằm trong mức đã được phê duyệt tại các nghị quyết của Quốc hội, bảo đảm đầy đủ, đúng hạn theo cam kết”, đại diện Bộ Tài chính nhấn mạnh.

Đặc biệt, trong năm ngoái không cấp mới bảo lãnh Chính phủ cho các dự án vay vốn trong nước. Chỉ cấp bảo lãnh Chính phủ cho 2 dự án điện vay vốn nước ngoài với tổng trị giá là 1.614 triệu USD. Bên cạnh đó, bảo lãnh cho 22 ngân hàng chính sách phát hành trái phiếu. Cụ thể, Ngân hàng Phát triển Việt Nam huy động được 16.545 tỷ đồng (bằng 95% kế hoạch) với 74,3% khối lượng phát hành có kỳ hạn từ 5 năm trở lên.  Ngân hàng Chính sách Xã hội huy động được 9.670 tỷ đồng (bằng 100% hạn mức phát hành) với 71% khối lượng phát hành có kỳ hạn từ 5 năm trở lên. Đến 31.12.2018, dư nợ trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh của 2 ngân hàng là 157.738 tỷ đồng, giảm 4,8% so với cuối năm 2017.

Đại diện Bộ Tài chính cho biết, về cơ bản, các dự án được Chính phủ bảo lãnh trả nợ đầy đủ đúng hạn. Tuy nhiên, trong báo cáo đánh giá tình hình nợ công năm 2018 gửi tới các ĐBQH Kỳ họp thứ Bảy, Chính phủ cho biết, trong năm 2018, Quỹ Tích lũy trả nợ vẫn phải ứng vốn trả nợ cho Tổng công ty Giấy Việt Nam với số tiền 7,61 triệu EUR (tương đương 8,13 triệu USD), nâng tổng trị giá ứng trả lên 82,6 triệu EUR (tương đương 97 triệu USD). Tuy nhiên, đến hết năm 2018, Bộ Công thương và Tổng công ty Giấy Việt Nam vẫn chưa thể xử lý xong tài sản dự án Nhà máy Giấy Phương Nam để thu hồi cho Quỹ Tích lũy trả nợ. Bên cạnh đó, Quỹ Tích lũy trả nợ cũng phải ứng cho dự án BT Đường cao tốc La Sơn - Túy Loan của Bộ Giao thông - Vận tải 44 triệu USD do vẫn chưa được cấp có thẩm quyền bố trí trong kế hoạch đầu tư công trung hạn.

… nhưng vẫn nhiều rủi ro

Mặc dù quy mô danh mục nợ Chính phủ đến cuối năm 2018 được kiểm soát tốt ở mức 50% GDP (so với 52,7% năm 2016 và 51,7%  năm 2017), nhưng Bộ Tài chính cho biết, cùng với ảnh hưởng của việc Việt Nam tốt nghiệp IDA kể từ năm 2017, các chỉ tiêu chi phí - rủi ro danh mục nợ Chính phủ, đặc biệt là nợ nước ngoài, có xu hướng kém thuận lợi hơn trước.

Cụ thể, rủi ro tái cấp vốn tập trung vào các khoản nợ trong nước của Chính phủ do nghĩa vụ trả nợ đến hạn tập trung cao vào một số năm (9,3% danh mục nợ trong nước của Chính phủ sẽ đến hạn năm 2019; 32,7% sẽ đến hạn trong giai đoạn 2019 - 2021). Điều này sẽ tác động đến việc bố trí nguồn trả nợ trong cân đối ngân sách nhà nước.

Đối với nợ trong nước, lãi suất bình quân gia quyền của danh mục nợ tính đến cuối năm 2018 ở mức 5,8%/năm, giảm đáng kể so với mức 6,6%/năm vào năm 2015. Tuy nhiên, do quy mô thị trường trái phiếu còn nhỏ, trong khi tiềm lực tài chính của các tổ chức tài chính phi ngân hàng còn hạn chế, việc tập trung phát hành trái phiếu Chính phủ kỳ hạn dài là tương đối khó khăn. Ngoài ra, việc không phát hành trái phiếu Chính phủ kỳ hạn ngắn dưới 5 năm cũng dẫn đến đường cong lãi suất chuẩn không đầy đủ, thiếu lãi suất ngắn hạn tham chiếu cho thị trường vốn.

Đối với danh mục nợ nước ngoài của Chính phủ, thứ nhất, trong 5 năm tới các khoản vay ODA sẽ giảm dần, tiến đến kết thúc, dẫn đến thiếu hụt nguồn vốn vay dài hạn, ưu đãi cho đầu tư. Thay vào đó, Chính phủ cần huy động các khoản vay mới với điều kiện kém ưu đãi hơn nhiều, sát với thị trường để bù đắp thiếu hụt cho cân đối ngân sách nhà nước và đầu tư công trung hạn.

Bên cạnh đó, rủi ro lãi suất danh mục nợ nước ngoài có xu hướng gia tăng do tỷ trọng các khoản vay có lãi suất thả nổi tăng. Tuy nhiên, đại diện Bộ Tài chính cho rằng, nhìn chung mặt bằng lãi suất bình quân nợ nước ngoài của Chính phủ vẫn duy trì ở mức thấp (2,0%/năm) do trên 96% khoản vay nước ngoài có điều kiện ODA, vay ưu đãi. Yếu tố này góp phần quan trọng giúp duy trì chỉ tiêu trả nợ trên thu ngân sách nhà nước trong ngưỡng an toàn.

Cuối cùng, mặc dù tỷ lệ vay bằng đồng Việt Nam trong dư nợ Chính phủ đã tăng từ 55% vào cuối năm 2015 lên 59,2% vào cuối năm 2018, song danh mục nợ nước ngoài của Chính phủ vẫn tập trung vào 4 loại tiền chủ đạo gồm SDR (quyền rút vốn đặc biệt - một định dạng tài sản do Quỹ Tiền tệ Quốc tế tạo ra cho các quốc gia thành viên), JPY, USD và EUR (chiếm tỷ lệ tương ứng 33,9%; 31,2%; 24,6% và 6%). Đây đều là những đồng tiền có biến động lớn trong thời gian vừa qua. Những khoản trái phiếu Chính phủ ngoại tệ phát hành trong nước trong giai đoạn trước cũng làm gia tăng rủi ro tỷ giá đối với tiền USD của danh mục nợ Chính phủ. 

    Nổi bật
        Mới nhất
        Ba rủi ro “đáng kể” của nợ nước ngoài
        • Mặc định
        POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO