BÀ O (Phần 1)
Truyện ngắn của Trương Quang

15/10/2014 08:53

 Minh họa của Đặng Hồng Quân
Minh họa của Đặng Hồng Quân 

>> BÀ O (Phần cuối)

Vào khoảng tháng 3 năm 1980, anh nhận được một lá thư của ba anh gửi sang từ quê nhà. Thư cho biết gia đình vừa tình cờ nhận được tin tức của một người chị họ bên nội của ba anh, vốn biệt tích từ sau ngày đất nước bị chia đôi, hiện nay đang sinh sống ở một vùng nào đó trên đất Pháp. Ba anh đề nghị, nếu có cơ hội, anh nên thử tìm cách liên lạc thăm viếng người mà anh sẽ gọi bằng bà o (cách xưng hô ở miền Trung), chắc hẳn đang rất khao khát tình thân tộc sau bao nhiêu năm sinh sống đơn chiếc ở xứ người.

Tất cả chỉ khởi đầu như thế. Anh đọc lá thư một cách lơ đãng, như mỗi buổi chiều về đến nhà, tay quơ vội vàng đống thư nhận được trong ngày, xé tung từng phong bì, đọc lướt qua loa nội dung bên trong một cách vô thức. Đọc mà như không đọc, vì cái đầu anh vẫn còn váng vất nỗi ngao ngán của một ngày làm việc ít khi hứng thú và nạn kẹt xe triền miên hằng ngày trên đường. Mẩu tin như một khúc củi khô trồi lên trên mặt sông mênh mông, chỉ vừa mới lắng xuống sau những cơn chấn động thủy triều ồ ạt. Anh đã đọc và nghe ở đâu đó những trường hợp tương tự, về những cuộc hội ngộ kỳ diệu đã xảy ra, thường rất bất ngờ (đôi chút tâm linh mầu nhiệm) sau chiến tranh. Thường thì anh không tin lắm, và cũng vì thế anh đã quên đi. Rất vô tình và vô tâm.

Vài tháng sau, cũng trong cơn vô thức lãng đãng hàng ngày, anh nhận được một lá thư với nét chữ rất lạ. Khúc củi khô tưởng đã quên lại trở nên rõ nét, định dạng rõ ràng, khi anh đọc những hàng chữ ngắn ngủi bên trong. Người đàn bà tự giới thiệu, cho biết vai vế trong dòng họ, hoàn cảnh ra đi trước đây và mô tả điều kiện sống hiện tại của mình. “Cô hiện đang sống một mình ở một vùng núi thuộc vùng trung tâm nước Pháp, trong một căn nhà nhỏ đầy đủ tiện nghi. Cô mong sẽ có một ngày con và gia đình đến thăm cô để thỏa tình mong nhớ…”.

Sau này, anh được biết lá thư có đoạn tả cảnh nhẹ nhàng nhưng đầy tự tin đó (và những lá thư sau nữa) là do một người láng giềng của bà o viết với giá mười quan Pháp một lần. Người viết thuê gốc miền Nam, không rành danh xưng xứ Huế, nên đã tự tiện sửa chữ o thành cô. Bà o tội nghiệp của anh vốn không được học hành, mù chữ cả ta lẫn Tây, tuy có mắt cũng như mù. Suốt những năm dài sống xa quê hương, người đàn bà đơn độc đó hẳn đã phải lệ thuộc hoàn toàn vào lòng thành của người đời. Tính nhẩm từ tuổi của ba anh, có lẽ bà o đã xấp xỉ thất tuần. Anh nghĩ, quỹ thời gian của người đàn bà không còn nhiều và ngày tháng ở vùng núi non thường thì dài lê thê, nên vợ chồng anh đã quyết định cùng hai con đi thăm bà o vào mùa hè năm đó.

Nơi bà ở là một thung lũng nhỏ nằm giữa một vùng núi non trùng điệp, thuộc Massif Central của nước Pháp. Đó là những dãy nhà tập thể bằng đá hộc thô sơ, vốn được chính phủ Mặt trận bình dân Pháp xây dựng sau thế chiến thứ hai, dành cho công nhân khai thác mỏ than trong vùng và gia đình trú ngụ.

Vào khoảng năm 1955, các hầm mỏ này bị đóng cửa, công nhân phải tản mát tứ phương. Cái địa điểm lạc lõng trong cộng đồng phát triển của xã hội hậu chiến Pháp đó bỗng dưng trở thành một nơi lý tưởng để đón tiếp đợt ‘hồi hương’ đầu tiên cho những gia đình có liên quan đến quân nhân của quân đội viễn chinh Pháp trở về từ Việt Nam. Phần lớn họ là những người đàn bà quê mùa chân chất, không xác định được gốc gác bản quán rõ ràng. Những đứa con lai họ mang theo là gạch nối duy nhất nhưng mù mờ, giữa đất người và quê nhà của họ. Bà o của anh không có đến cả một đứa con hợp chủng và, như nhiều người đàn bà khác, chưa bao giờ mường tượng ra được đầy đủ khuôn mặt của kẻ đã ‘hóa thân’ cuộc đời mình, trong những cơn biến loạn đã thình lình đến, đầy tai ương và bất ổn trong thời chiến tranh ở quê nhà.

Anh đã loay hoay lái xe trong vùng rừng núi hoang vu đó hàng giờ, nhưng không tìm ra được một ai trên những con đèo quanh co để hỏi cho ra cái lối rẽ nhỏ dẫn vào thị trấn mang một tên gọi không thấy ghi trên bản đồ. Những dãy nhà phố đìu hiu màu xám tối nằm quanh một công viên nhỏ, đóng cửa im lìm như những người nhàn tản đã tháo giày, quấn chăn mền ngủ yên từ lúc mặt trời lặn.

Cuối cùng anh cũng tìm được đến nơi, sau hàng giờ đi lạc vòng quanh những đoạn đường vắng vẻ, chỉ có cây và cỏ. Khu nhà tập thể nằm yên vắng giữa một cánh đồng trống trải trước khi nối tiếp với bìa rừng âm u. Chỉ có tiếng côn trùng râm ran không dứt. Thế nhưng, khi anh dừng xe ở cổng một bờ rào, loay hoay đọc số nhà ẩn sau mấy vòm cây leo, dưới ánh sáng mù mờ hắt ra từ căn nhà duy nhất còn chong đèn, cả một dãy nhà trước mặt như thức giấc đồng loạt và một loạt đèn được bật lên cùng lúc. Rồi bất chợt tiếng chó sủa náo nức phát ra từ phía ngôi nhà. Cánh cửa hàng rào trước nhà mở rộng. Một con vật phóng nhanh qua mảnh vườn tối đen, sục sạo vào hai bàn chân của anh. Anh cúi xuống, vỗ lên đầu con vật, thở ra nhẹ nhõm, ngạc nhiên không hiểu tại sao con chó có thể nhận ra mình. Có tiếng dép lẹp xẹp phát ra từ con đường tráng xi măng giữa những tán cây rậm, rồi ánh đèn pin di chuyển đến gần anh.

“Quang đó hả, tưởng mi lạc ở mô trong rừng rồi. Vợ con mi mô?”

Quay sang con chó, bà nạt: “Cún, vô nhà mau”.

Bà o chui đầu qua cửa kính, hai tay lần mò theo những tiếng lục đục trên xe và những giọng chào hỏi còn ngái ngủ.

“Ui chao, mấy cháu đây hả, cả ngày ngồi trên xe, tội nghiệp rứa?”

Người đàn bà dáng thấp lùn bé nhỏ, di chuyển sau cái bóng của mình, lăng xăng đi trước dẫn đường.

“Tau dậy từ sáng sớm, nấu cơm chờ mấy đứa bay”.

Có tiếng xì xào từ nhà láng giềng. “Cháu bà cụ đến rồi. Thôi, đi ngủ. Một giờ sáng rồi còn gì”. Một ánh đèn, rồi nhiều ánh đèn tắt phụt. Dãy nhà đen đúa trở lại im lìm, nhẹ nhàng trầm mình trong đêm khuya.

Anh khệ nệ mang những chiếc túi xách chạy theo vợ con, chợt nhớ là mình chưa chào hỏi bà o gì cả. Đêm tối đen như mực, không cho anh thấy rõ khuôn mặt của bà. Con chó quay trở lại, quấn quít liếm quanh hai gót chân của anh, theo mãi đến bậc thềm nhà.

Anh bước vào căn nhà không kịp nhận ra vóc dáng và đồ vật chung quanh. Sau đó cả nhà ăn bữa cơm nhiều món bà o đã có công chuẩn bị từ sáng sớm, nhưng không ai nuốt được những món ăn đặc biệt của xứ Huế cay thốc lên tận mũi trong cái mệt mỏi tột cùng sau một ngày dài ngồi trên xe. Rồi anh đã thức dậy giữa tiếng hót rộn ràng của vô số loài chim, tự hỏi không biết hôm qua (hay sáng nay) mình đã đi ngủ lúc nào?

Khi anh mở cửa bước vào căn phòng khách, bà o vội vàng thu xếp những vật dụng trên chiếc phản gỗ nhỏ, giọng tỉnh táo như chưa từng ngủ.

“Bữa ni tau nấu bánh canh Nam phổ cho mấy đứa ăn”. 

Bà chùi hai bàn tay dính đầy bột vào thân áo, nói nhỏ:

“Cứ để cho mấy cháu ngủ. Croissant và cà phê để sẵn trên bàn đó. Mi uống đi”.

Con chó vàng nằm thu mình yên lặng trên tấm mền trong góc phòng, mắt nhìn bà tò mò như trẻ con nhìn mẹ.

Anh pha một ly cà phê không đường, mang ra đứng ngoài thềm. Nắng tươi rói như được lọc qua những mảng lá xanh non còn lưu lại từ mùa xuân, phủ xuống che hết khoảng sân và lối nhỏ tráng xi măng dẫn ra hàng rào trước nhà. Những con gà con đang xúm xít, ríu rít bên gà mẹ; một con gà trống đứng từ xa lơ đãng như khách bàng quan.

Anh rời thềm nhà, bước ra giữa vùng nắng, ngửa mặt hứng bầu không khí được ướp lạnh qua đêm từ những cánh rừng bao quanh, khứu giác bỗng dưng thức tỉnh, rộn ràng bởi một loại mùi tổng hợp như có ai đó bất ngờ mở chiếc bầu phù phép cho luồng khói bí hiểm thoát ra. Bà o ra đứng bên anh, tay vạch những đám lá xanh ngăn ngắt, xếp hàng thẳng đều trên những vồng đất đan chen trật tự, nhắc tên từng loại rau đã từng phủ đầy khu vườn nhỏ sau nhà anh ở Đà Nẵng. Bà chỉ từng luống rau húng quế, húng mùi, húng lủi, tía tô, kinh giới, rau răm, cải bẹ xanh, rau cải xoong; một giàn mướp, bí đao, khổ qua và su hào… Một mảnh “vườn quê” và “bà mẹ quê” được bà mang theo từ miền Bắc Việt Nam nghèo nàn (Vườn rau, vườn rau xanh ngắt một màu/ Có đàn, có đàn gà con nương náu/ Mẹ quê, mẹ quê vất vả trăm chiều/ Nuôi một đàn con chắt chiu/ Bà, bà mẹ quê…) đặt vào một khoảnh đất xa lạ thuộc vùng trung du nước Pháp. Theo như bà o kể, những vồng rau đó đã thực sự nuôi sống bà trong suốt thời gian hơn ba mươi năm được “hồi hương” về quê “chồng”.

Có những cái bà không mang theo được cùng với những hạt giống trong cái túi vải nhỏ, để gieo trồng một “mầm mống quê hương” (bà o không có con cái) trên đất người xa xăm, mà đã có sẵn trong căn nhà bà đã được chia của phu mỏ than bản xứ để lại. Sáng nay, khi vợ anh và các con thức dậy, theo bà ra góc vườn, đứa con gái nhỏ chưa đầy năm tuổi của anh đã chạy trở lại ôm lấy anh, hốt hoảng. Nó nhất định không vào cái nhà xí bệt và xấp giấy vệ sinh cắt ra từ những tờ nhật báo, rất thường gặp ở vùng quê nghèo miền Bắc, mặc dù bà o đã cố vỗ về thuyết phục. Chiều hôm đó, đến lượt vợ anh lại ngạc nhiên dắt hai con, khệ nệ bưng theo hai nồi nước sôi, theo bà xuống hầm… để tắm.

Cái nghèo dù được thể hiện ở hai vùng đất khác nhau, xa xôi cách biệt ngàn trùng, vẫn giống nhau đến lạ lùng như hai giọt nước, đến nỗi một người như anh, vốn đã sống, học hành và làm việc ở quê nhà cho tới gần ba mươi tuổi và chỉ xa quê hương chưa đến hai mươi năm, cũng tự đặt cho mình câu hỏi, làm sao bà có thể sinh sống và tồn tại trong một hoàn cảnh và điều kiện như thế, ở một nơi được gọi là Tây phương, điều mơ ước trong đời của bao nhiêu người? Câu trả lời thật giản dị, bà đã tồn tại trong hơn bốn mươi năm ở xứ người với ba vật thể thuần Việt thân thiết, sớm tối không bao giờ tách rời: mảnh vườn rau, con chó vàng và chiếc bàn thờ tổ tiên.

Nơi bà dùng cho việc thờ cúng trên cái gác gỗ rộng thênh thang khiến anh vừa ngạc nhiên vừa thương cảm. Trên một dãy bàn dài, bà trưng bày tất cả những gì quý giá và dâng cúng những gì có được cho ‘bề trên’. Những tấm hình được đặt ngang dọc, đứng ngồi, bán thân, truyền thần, đủ hạn tuổi và giới tính… Anh đặc biệt để ý đến một tấm hình đen trắng đã mờ, có dạng một người trung niên mặc áo đại trào, đầu đội mão, chân mang hia thêu, ngồi chễm chệ trên một chiếc ngai bên cạnh một người đàn bà trang phục xưa, trang trọng nhưng giản dị hơn. Bà cô trịnh trọng cắm mấy cây nhang, cúi thấp người vái lạy, lầm thầm giới thiệu cho tôi ra mắt “đức ngài ngự” Thành Thái và bà Minh Phi. Ôi, bà Minh Phi họ Trương, thứ phi sủng ái của vị vua thứ mười của triều Nguyễn, lại có thể xuất hiện trên bàn thờ của một người đàn bà cô đơn nơi chốn thâm u cùng cốc này được sao? Lần này thì đứa con gái nhỏ bé của tôi lại tò mò, thích thú nghe kể chuyện đời và gốc gác ‘hoàng gia’ của tổ tiên dòng họ của bố.
 
Theo Trương gia bản phổ, họ Trương vốn cải từ gốc họ Lê để tránh nạn kỳ thị lý lịch thời vua Lê chúa Trịnh, quê quán ở tỉnh Thanh Hóa, phủ Hà Trung, tổng Hạ Bạn, huyện Tống Sơn, theo phò chúa Nguyễn Kim vào khai khẩn, dựng cơ đồ ở miền Trung từ những ngày đầu tràn đầy gian khổ. Trong suốt cuộc hành trình tìm đất sống và xây dựng một vương triều riêng rẽ ở Đàng trong, các thế hệ họ Trương nối tiếp đã cung cúc phục vụ dưới trướng nhiều chúa Nguyễn. Phần lớn họ là lính cấm vệ, thường gần gũi các bậc quân vương, nên cũng như các thái giám, họ cam phận làm những cái bóng vô danh trong chốn hoàng cung, hoàn toàn chìm vào cái hộp đen ‘thâm cung bí sử’ không bao giờ hé mở ra trong mắt thần dân thường. Về điều này, lời mở đầu của gia phả họ Trương sau này ghi lại không mấy rõ ràng, nhưng đủ gợi đôi chút nuối tiếc: “Tổ tiên ta về các đời thứ mười, thứ chín, chỗ ở chưa ổn định; cho đến đời bà Tổ tỉ mới có tên tự, nhưng tên chữ thì thất truyền, không lấy gì làm căn cứ để khảo thuật. Đến đời ông Tổ thứ tám, mới có họ tên rõ ràng; nhân đó lập làm ông Thủy tổ của dòng họ Trương”.
 
Cũng nhờ luôn luôn ở vị trí cận kề với các chúa và các vị vua sau khi vương triều Nguyễn được thiết lập, đã có nhiều người họ Trương được phẩm trật và tước cao trọng hay được tuyển phò mã (dưới triều Minh Mạng và Thiệu Trị). Cũng có lúc có người đã bị ‘biếm’, mất hết phẩm trật và quyền uy (vì thua trận quân Tây Sơn ở Quảng Nam). Tuy nhiên, phải đến đời vua Thành Thái, họ Trương mới thực sự ‘đặt chân xuống đất’ và khẳng định vị thế xứng đáng của những công thần trung thành.

(Số sau đăng hết)

    Nổi bật
        Mới nhất
        BÀ O (Phần 1)<br><i>Truyện ngắn của</i> Trương Quang
        • Mặc định
        POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO