Tổ chức bảo hiểm tiền gửi cần có vị thế độc lập tương đối

Minh Vân lược ghi 11/11/2011 15:35

Thảo luận về dự án Luật Bảo hiểm tiền gửi, nhiều ĐBQH cho rằng, hiện nay, bảo hiểm tiền gửi đã trở thành thiết chế không thể thiếu được trong bất kỳ nền kinh tế nào. Việc nâng Nghị định về bảo hiểm tiền gửi thành Luật là một quyết định đúng đắn, nhất là trong bối cảnh tái cấu trúc hệ thống ngân hàng và cơ cấu lại nền kinh tế của đất nước là một chủ trương lớn của Đảng, Nhà nước; đồng thời góp phần hoàn thiện khung pháp lý về hoạt động bảo hiểm tiền gửi, tạo niềm tin cho người gửi tiền và chính sách minh bạch, bảo vệ công khai quyền lợi của người gửi tiền...

ĐBQH Nguyễn Ngọc Bảo (Vĩnh Phúc): Tổ chức bảo hiểm tiền gửi phải trực thuộc Chính phủ

Theo tôi, tổ chức bảo hiểm tiền gửi phải trực thuộc Chính phủ, không nên trực thuộc ngân hàng vì các lý do sau: ngân hàng là cơ quan thực thi các chính sách về tiền tệ, cấp giấy phép cũng như trực tiếp quản lý các hệ thống tín dụng và các hoạt động của các hệ thống ngân hàng trong toàn quốc. Trong khi đó chức năng của bảo hiểm tiền gửi là bảo vệ về quyền lợi của người gửi tiền, bảo đảm an toàn và lành mạnh hệ thống của ngân hàng, nâng cao niềm tin của người dân, bảo đảm việc giám sát hệ thống tài chính quốc gia.

Hai, bảo hiểm tiền gửi phải có chức năng giám sát nhằm minh bạch, công khai trách nhiệm cũng như tránh sự bảo lãnh ngầm. Quan trọng hơn nữa là bảo vệ an toàn của tổ chức bảo hiểm, nhằm hạn chế khả năng xảy ra đổ vỡ, bảo đảm sự ổn định và an toàn cho hệ thống ngân hàng, giảm thiểu các nguy cơ về tổn thất vỡ các quỹ tín dụng.

Thứ ba, kiến nghị về loại tiền gửi được bảo hiểm. Tiền gửi bằng vàng, bằng ngoại tệ là hợp pháp và được Nhà nước khuyến khích để bảo đảm quyền lợi hợp pháp cho người dân và thu hút tiền gửi bằng ngoại tệ, vàng. Tình trạng vàng, ngoại tệ hiện nay đang tích lũy trong dân hoặc trôi nổi trên thị trường rất lớn. Nhà nước cần có chính sách bảo hiểm đối với loại tiền gửi bằng vàng, bằng ngoại tệ. Để tránh hiện tượng giao dịch bằng vàng hoặc ngoại tệ, việc tính phí bảo hiểm và chi trả bảo hiểm đối với người gửi tiền bằng vàng, ngoại tệ sẽ được quy đổi ra VNĐ  phù hợp với chính sách hiện nay là hướng tới trên toàn lãnh thổ Việt Nam không sử dụng ngoại tệ và tiến tới sử dụng VNĐ.

Cuối cùng, theo quy định hiện hành thì đối tượng bảo hiểm mới chỉ là cá nhân và các tổ chức hợp tác xã. Nhưng theo thông lệ của quốc tế cũng như nhiều nước đã áp dụng, đề nghị bổ sung thêm các loại hình được bảo hiểm tiền gửi là các doanh nghiệp, các hiệp hội, các tổ chức nhằm để bảo vệ quyền lợi cho người gửi tiền.

ĐBQH La Ngọc Thoáng (Cao Bằng): Có phải là bước thụt lùi?

Quản lý nhà nước về bảo hiểm tiền gửi và mô hình tổ chức bảo hiểm tiền gửi là hai yếu tố hết sức quan trọng có vai trò quyết định đến hiệu quả hoạt động của tổ chức bảo hiểm tiền gửi. Tổ chức bảo hiểm tiền gửi Việt Nam đã có hơn 10 năm kinh nghiệm hoạt động do Thủ tướng quyết định thành lập, nhiệm vụ, quyền hạn được Nghị quyết của Chính phủ quy định. Mặc dù lần đầu tiên được áp dụng ở Việt Nam nhưng pháp luật hiện hành về bảo hiểm tiền gửi đã tiếp thu nhiều nội dung tiến bộ, tương đối phù hợp với hệ thống thông lệ quốc tế như bảo đảm tính độc lập tương đối của bảo hiểm tiền gửi, có chức năng giám sát và kiểm tra chấp hành pháp luật, độ an toàn các tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi. Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam còn có cả chức năng hỗ trợ tài chính và tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi khi cần thiết.

Thế nhưng, khi so sánh với nội dung của dự thảo Luật trình QH lần này, nhiều nhà khoa học trong và ngoài nước đã nhận xét đây là một bước thụt lùi. Ngay cả Hội đồng thẩm định của Bộ Tư pháp cũng nhận xét trong báo cáo thẩm định số 148 ngày 6.9.2011 rằng vai trò của bảo hiểm tiền gửi trong dự thảo luật quá mờ nhạt, bị hạ thấp nhiều so với pháp luật hiện hành; vị thế của bảo hiểm tiền gửi bị thu hẹp làm giảm sút niềm tin của dân chúng vào bảo hiểm tiền gửi. Hội đồng còn đề nghị phải trao cho bảo hiểm tiền gửi những quyền hạn cần thiết để bảo hiểm tiền gửi hoàn thành chức năng, nhiệm vụ của mình theo Điều 29, Điều 30 của dự thảo.
Theo dự thảo luật thì bảo hiểm tiền gửi là tổ chức tài chính do Thống đốc Ngân hàng Nhà nước thành lập thuộc cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước quy định chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức của bảo hiểm tiền gửi, như vậy dự thảo luật đã sáp nhập bảo hiểm tiền gửi vào Ngân hàng Nhà nước. Lý do việc sáp nhập này là cả Ngân hàng Nhà nước và bảo hiểm tiền gửi đều có chung một mục tiêu là bảo vệ lợi ích hợp pháp của người gửi tiền góp phần duy trì sự ổn định của hệ thống các tổ chức tín dụng. Lý do này là không thỏa đáng cho dù cả hai đều điều có chung mục tiêu, nhưng Ngân hàng Nhà nước thực hiện mục tiêu này bằng chức năng quản lý Nhà nước được thể hiện qua các cơ chế chính sách tiền tệ và ngân hàng. Còn bảo hiểm tiền gửi thực hiện mục tiêu này bằng các công cụ kỹ thuật thuần túy mang tính chất chuyên môn nghiệp vụ cao về bảo hiểm tiền gửi. Hoạt động của bảo hiểm tiền gửi có hiệu quả sẽ là một công cụ đắc lực giúp ngân hàng Nhà nước thực hiện tốt chức năng quản lý Nhà nước của mình. Lý do thứ hai là năng lực hỗ trợ các tổ chức tín dụng bảo đảm tính thanh khoản cũng như khả năng chi trả của bảo hiểm tiền gửi, hệ thống các tổ chức tín dụng hủy, đổ vỡ thấp. Đúng là năng lực tài chính hiện nay của bảo hiểm tiền gửi còn hạn chế, nhưng trong Tờ trình của Chính phủ chưa phân tích được nguyên nhân tại sao. Phải chăng đó chính là vì chưa tạo cơ chế, chính sách cần thiết để bảo hiểm tiền gửi có đủ năng lực tài chính để đủ xử lý các vấn đề phát sinh.

Việc ban hành Luật Bảo hiểm tiền gửi lần này là cơ hội để khắc phục những vấn đề nêu trên...

ĐBQH Cao Sĩ Kiêm (Thái Bình): Mô hình chi trả mở rộng là như thế nào?

Đề nghị Ban soạn thảo nên làm rõ một số vấn đề sau: Thứ nhất là lý giải những kiến nghị của Ủy ban Kinh tế đã nêu lên trong bản báo cáo, bởi tôi thấy có rất nhiều vấn đề cần phải giải đáp rõ để có cơ sở thảo luận và quyết định.

Thứ hai, trong quan điểm thứ ba của dự thảo luật có nêu là nên có tính kế thừa trên cơ sở thực hiện 12 năm qua. Tôi tán thành phải tổng kết một cách nghiêm túc, xem cái gì được, cái gì chưa được, cái gì thiếu, cái gì yếu, cái gì khắc phục được, cái gì không thể khắc phục được để có thể bảo đảm nguyên tắc kế thừa những cái tốt, những cái đã làm được và ngăn chặn, loại bỏ những cái còn khiếm khuyết trong thời gian vừa qua.

Thứ ba, phải nêu rõ phạm vi quyền hạn của cơ quan bảo hiểm tiền gửi so với mô hình hiện nay đang thực hiện và so với thông lệ quốc tế đang áp dụng.

Thứ tư, phải làm rõ nội dung mô hình chi trả mở rộng vì chúng ta chọn mô hình lơ lửng ở giữa. Chi trả mở rộng là thế nào, một vấn đề cũng là mở rộng, mười vấn đề cũng là mở rộng mà chỉ nói một cách đơn giản như thế này thì không có trọng lượng và khi quyết định không có cơ sở. Cho nên cần làm rõ mô hình chi trả mở rộng ở Việt Nam là thế nào, mức độ ra sao, những điều kiện, nhiệm vụ và nội dung hoạt động ở mức nào để có thể thảo luận quyết định bảo đảm chất lượng, nội dung hoạt động của bảo hiểm tiền gửi đúng với yêu cầu của thông lệ quốc tế và đáp ứng được mục tiêu là giảm thiểu rủi ro trong hoạt động ngân hàng.

Thứ năm là xác định vai trò và mối quan hệ của cơ quan bảo hiểm tiền gửi với các thành viên khác trong mạng lưới đảm bảo an toàn, an ninh hệ thống.

ĐBQH Trương Minh Hoàng (Cà Mau): Khi hệ thống đổ vỡ, tổ chức riêng lẻ không thể giải quyết được

Hiện nay, vấn đề tái cơ cấu cấu trúc hệ thống ngân hàng đang được quan tâm hơn bao giờ hết. Nhưng nếu theo quy định dự thảo Luật Bảo hiểm tiền gửi thì vai trò của tổ chức bảo hiểm tiền gửi với tư cách là tổ chức duy nhất bảo vệ người gửi tiền còn hạn chế, hạn chế hơn cả so với hiện tại. Điều này có thể sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến niềm tin của nhân dân vào hệ thống ngân hàng.

Trong giai đoạn khủng hoảng hoặc đổ vỡ hệ thống, không có tổ chức riêng lẻ nào có thể giải quyết được mà cần có sự phối kết hợp chặt chẽ giữa các cơ quan trong mạng an toàn tài chính như Ngân hàng Nhà nước, Bộ Tài chính hay Ủy ban giám sát tài chính của quốc gia liên quan đến bảo hiểm tiền gửi. Do đó, để bảo đảm tốt cho người gửi tiền duy trì và nâng cao niềm tin của nhân dân vào hệ thống ngân hàng, tôi đề nghị dự thảo luật cần quy định rõ ràng và cụ thể hơn về chế độ bảo hiểm đối với người gửi tiền, về chức năng, nhiệm vụ và địa vị pháp lý của tổ chức bảo hiểm tiền gửi.

Đối với quyền và trách nhiệm của người được bảo hiểm tiền gửi, tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi, tổ chức bảo hiểm tiền gửi được quy định ở Chương II, cơ sở pháp lý hiện tại đã giao cho tổ chức bảo hiểm tiền gửi về chức năng giám sát từ xa, kiểm tra tại chỗ, hỗ trợ tài chính đối với tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi, chi trả cho người gửi tiền. Tuy nhiên, dự thảo chỉ nhắc tới chức năng giám sát từ xa của tổ chức bảo hiểm tiền gửi một cách mờ nhạt, không tạo đủ cơ sở thông tin cần thiết để tổ chức bảo hiểm tiền gửi khai thác những chức năng khác không được đưa vào và cũng chưa có giải thích một cách cơ bản.

Về quản lý Nhà nước và mô hình tổ chức bảo hiểm tiền gửi, theo đề xuất trong dự thảo luật, hiện nay Ngân hàng Nhà nước là cơ quan thành lập và quản lý tổ chức bảo hiểm tiền gửi. Như vậy vai trò quản lý và ý nghĩa của tổ chức bảo hiểm tiền gửi sẽ giảm đi. Đồng thời khiến cho Ngân hàng Nhà nước trở thành một cơ quan phải giải quyết nhiều mục tiêu cùng một lúc dẫn tới các mâu thuẫn ích lợi bởi lẽ khi Ngân hàng Nhà nước vừa là cơ quan thực hiện thi hành chính sách tiền tệ, cơ quan cấp phép, cơ quan giám sát và các tổ chức nhận tiền gửi đồng thời lại là cơ quan bảo hiểm quyền lợi cho người gửi tiền. Hệ quả Ngân hàng Nhà nước khó đạt được cùng một lúc nhiều mục tiêu đã đề ra cũng như sẽ có xu hướng trực tiếp sử dụng tiền thuế của người dân trong trường hợp xử lý ngân hàng yếu kém và giải quyết thi hành trong chi trả...

ĐBQH Nguyễn Văn Bình (Hải Phòng): Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chịu trách nhiệm quản lý Nhà nước về bảo hiểm tiền gửi

Dự án Luật Bảo hiểm tiền gửi quy định đối tượng áp dụng bao gồm người được bảo hiểm tiền gửi là cá nhân có tiền gửi được bảo hiểm tại tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi, trừ những cá nhân như quy định tại Điều 19 của dự án luật, tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi, tổ chức bảo hiểm tiền gửi, tổ chức và cá nhân khác có liên quan đến hoạt động bảo hiểm tiền gửi. Tôi đề nghị chỉ nên bảo hiểm tiền gửi của cá nhân là những người gửi tiền nhỏ, lẻ và thiếu thông tin về tổ chức tín dụng. Hạn mức trả tiền bảo hiểm trong điều kiện của Việt Nam sẽ không lớn, hiện nay là 50 triệu đồng. Dự thảo luật hiện nay không quy định hạn mức cụ thể trong luật, mà giao Thủ tướng Chính phủ quy định trên cơ sở đề nghị của Ngân hàng Nhà nước trong từng thời kỳ. Không có hạn mức chuẩn mà thường là từ 3-5 lần của GDP tính trên đầu người. Hiện nay GDP trên đầu người của Việt Nam khoảng 1.200 USD, tương đương khoảng 25 - 26 triệu đồng. Hạn mức bảo hiểm tiền gửi gấp 5 lần GDP cũng chỉ khoảng 150 triệu đồng, nếu mở rộng đối tượng bảo hiểm ra cả doanh nghiệp, các tổ chức chính trị xã hội thì hạn mức trả tiền bảo hiểm cũng quá thấp so với số tiền gửi.

Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chịu trách nhiệm quản lý Nhà nước về bảo hiểm tiền gửi. Bởi Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cũng quy định giao cho Ngân hàng Nhà nước Việt Nam thực hiện việc quản lý Nhà nước về bảo hiểm tiền gửi. Tuy nhiên, tổ chức bảo hiểm tiền gửi cần có vị thế độc lập tương đối nhằm đảm bảo tổ chức bảo hiểm tiền gửi có đủ thẩm quyền và năng lực tài chính để thực hiện chính sách bảo hiểm tiền gửi hiệu quả minh bạch và khách quan.
Về mô hình tổ chức bảo hiểm tiền gửi, đề nghị giữ như quy định hiện hành về tổ chức bảo hiểm tiền gửi tại Nghị định 89 của Chính phủ ngày 1.9.1999 là tổ chức bảo hiểm tiền gửi là tổ chức tài chính Nhà nước hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận, bảo đảm an toàn vốn và tự bù đắp chi phí...

ĐBQH Đặng Xuân Huy (Đồng Tháp): Tổ chức bảo hiểm tiền gửi cũng có thể phá sản...

Tôi đồng tình với quan điểm bảo hiểm tiền gửi Việt Nam là loại hình doanh nghiệp được thành lập và hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận. Bởi điều này vừa phù hợp với cơ chế thị trường, vừa linh hoạt theo từng giai đoạn của nền kinh tế. Tuy nhiên, cần nghiên cứu thêm vì nếu tổ chức bảo hiểm tiền gửi là loại hình doanh nghiệp mà hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận, vận hành bộ máy, chi phí điều hành quản lý, chi phí hoạt động theo loại hình doanh nghiệp không vì mục tiêu lợi nhuận có thể không có lãi, có thể là lỗ, vẫn có những tiềm ẩn rủi ro. Nếu tổ chức bảo hiểm tiền gửi là loại hình doanh nghiệp thì phải hoạt động theo Luật Doanh nghiệp. Nếu không lãi, có thể lỗ, mất khả năng chi trả khi rủi ro, mức bảo hiểm cũng như tổ chức tham gia bảo hiểm phá sản thì tổ chức bảo hiểm tiền gửi cũng có thể thực hiện theo quy định về tuyên bố phá sản thêm một doanh nghiệp. Như vậy tổ chức bảo hiểm tiền gửi cũng có thể phá sản, cho nên chưa thực sự an toàn cho người được bảo hiểm tiền gửi. Do đó, tôi đề nghị QH xem xét quy định rõ thêm là tổ chức bảo hiểm tiền gửi Việt Nam là loại hình doanh nghiệp xếp loại đặc biệt được Chính phủ thành lập và hỗ trợ, giao cho Ngân hàng Nhà nước quản lý.

Theo Khoản 2, Điều 4 về giải thích từ ngữ, người được bảo hiểm tiền gửi là cá nhân có tiền gửi được bảo hiểm tại tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi. Tại Khoản 2, Điều 25 về số tiền bảo hiểm được trả trong trường hợp nhiều cá nhân đồng sở hữu tiền gửi tại tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi, tiền gửi của các đồng sở hữu được coi là tiền gửi của một người được bảo hiểm tiền gửi. Tôi thấy giữa 2 điều này chưa thống nhất. Nếu đã khẳng định người được bảo hiểm tiền gửi là cá nhân mà hộ gia đình, hợp tác xã hùn vốn, các tổ chức không là đối tượng được bảo hiểm tiền gửi. Đã nói là cá nhân thì làm gì có đồng sở hữu khi gửi tiền tại tổ chức tín dụng như ngân hàng? Chỉ có hai loại tài khoản là tài khoản cá nhân và tài khoản tiền gửi của tổ chức. Cho nên không có tài khoản gọi lại tài khoản đồng sở hữu tại tổ chức tín dụng nhận tiền gửi. Do đó, tôi đề nghị cần làm rõ thêm. Nếu như thu hẹp chủ thể chỉ là cá nhân được bảo hiểm tiền gửi thì nên định nghĩa cho rõ.

    Nổi bật
        Mới nhất
        Tổ chức bảo hiểm tiền gửi cần có vị thế độc lập tương đối
        • Mặc định
        POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO