Minh bạch thông tin và tiêu chuẩn
Lâu nay, người tiêu dùng chỉ quen phân biệt sữa bột với sữa nước. Nhiều người chưa nắm được sữa tươi khác với sữa hoàn nguyên, sữa bột như thế nào. Họ nhầm tưởng các loại sữa dạng lỏng được pha từ sữa bột là sữa tươi, trong khi tên gọi loại sữa này được gọi là “sữa tiệt trùng”. Thực tế, sữa hoàn nguyên là sữa được sản xuất tại trang trại nước ngoài, sau đó cô đặc lại, vận chuyển về Việt Nam, pha lại với nước để tạo thành sữa nước. Còn sữa tươi 100% là sữa được cung cấp từ các hội, trang trại chăn nuôi bò sữa trong nước cung ứng. Sau khi thu hoạch, sữa tươi được xử lý và bán ra thị trường dưới dạng sữa nguyên chất, không cô đặc, không pha với nước. Do vậy, quy trình sản xuất, nguồn gốc, xuất xứ, giá trị dinh dưỡng của các loại sữa cũng khác biệt.
Theo Viện trưởng Viện Nghiên cứu kinh tế và Chính sách (VEPR) Nguyễn Đức Thành, để có cơ hội cho các doanh nghiệp sữa tươi, chăn nuôi bò sữa “sống sót” khi vào TPP thì cần phải có thông tin minh bạch về chất lượng của từng loại sữa để người tiêu dùng chủ động lựa chọn. Họ cần biết sữa được sản xuất ở đâu, sữa của đàn bò nuôi chăn thả ở Việt Nam khác với sữa của đàn bò được chăn thả ở New Zealand về bản chất, quy trình ra sao. Từ đó, đánh giá đúng giá trị các loại sữa, để ngành sữa Việt Nam có đủ nội lực chiễm lĩnh thị trường trong nước, tự tin hội nhập sâu vào TPP và hưởng lợi. Chính vì vậy, minh bạch thông tin là yếu tố sống còn của ngành sữa.
Nguồn: vinanet.vn |
Cần điểm tựa để bứt phá
TS. Nguyễn Đức Thành nhận định: TPP là một cơ hội tốt để cải cách thị trường sữa tại Việt Nam. Cùng quan điểm với TS. Thành, nhiều chuyên gia trong ngành cho rằng, thị trường sữa tươi hiện tại đang rất rộng cửa, vì hiện nay tỷ lệ tăng trưởng sản lượng sữa bò không theo kịp nhu cầu sử dụng sữa của người dân. Minh chứng cụ thể là hiện nay, sữa sản xuất trong nước mới chỉ đáp ứng được 30% nhu cầu của các nhà máy, còn lại 70% nguyên liệu là nhập khẩu. PGS.TS Hoàng Kim Giao, Hiệp hội Gia súc lớn (Hội Chăn nuôi Việt Nam) cho biết: “Ở Việt Nam, bình quân mới đạt là 18 lít/người/năm, trong đó có 6,1 lít sữa tươi bằng 34% tổng lượng sữa quy đổi tiêu thụ. Còn tại Thái Lan là 25 lít, Trung Quốc là 35 lít. Thực tế, tiêu thụ sữa bình quân cho một người trên thế giới là 103,4 lít. Con số này khác nhau ở các khu vực, các nước. Tại châu Á là 65,6 lít, châu Âu là 205 lít, châu Đại Dương là 336 lít”.
Theo Phó tổng giám đốc Tập đoàn TH True Milk Hoàng Công Trang, để tạo được thương hiệu ngành sữa Việt Nam thì cần bảo vệ thương hiệu sữa Việt Nam. Muốn làm được điều đó, cần định hướng cho khách hàng hiểu giá trị việc dùng sữa tươi trong nước. Từ những ưu thế vượt trội về dưỡng chất, từ đó tạo cuộc “cách mạng” trong sản xuất, tiêu dùng sữa tươi. Đồng thời, cần chuẩn hóa các chính sách để thúc đẩy ngành sữa tươi trong nước từ việc đưa ra hạn ngạch nhập khẩu sữa bột nhằm giảm tỷ lệ sữa nước làm từ sữa bột trên thị trường.
Thực tế, nhu cầu tiêu dùng sữa ở nước ta trong thập niên qua được đánh giá tăng trưởng cao, luôn đạt hai con số và trong tương lai dài nhu cầu này tiếp tục phát triển. Dù vậy, việc phát triển được các mô hình, trang trại chăn nuôi bò sữa cho sản lượng cao thì chắc chắn, ngành sữa tươi và chăn nuôi bò sữa cần có điểm tựa nhất định để có thể tạo nên đột phá. Theo nhiều chuyên gia, một trong những điểm yếu để cản chân ngành sữa bứt phá là do gần 90% đàn bò chăn nuôi quy mô nhỏ ở các vùng đô thị, chỉ có 10% số hộ chăn nuôi trang trại chuyên nghiệp. Kỹ năng chăn nuôi của nông dân chưa cao, nguồn thức ăn còn phụ thuộc phần lớn vào thức ăn tinh có giá thành cao, chất lượng không ổn định nên năng suất sữa thấp. Ngoài ra, các chính sách vĩ mô phát triển đàn bò sữa về vốn, con giống, đầu tư hạ tầng, chuồng trại còn thiếu, chưa đồng bộ và chưa trọng tâm. Do vậy, bài toán vẫn chưa thể có lời giải.
Trong bối cảnh này, Nhà nước cần có những quy định, quyết sách cụ thể, minh bạch tiêu chuẩn các loại sữa ở Việt Nam để ngành chăn nuôi bò sữa nói chung, ngành sữa tươi nói riêng không bị hụt hơi khi hội nhập, để thật vững tâm tiến vào sân chơi TPP. Lúc này doanh nghiệp sữa trong nước cần chủ động nắm giữ thị trường, đầu tư mạnh mẽ, bài bản với công nghệ cao mới cạnh tranh được sản phẩm sữa nhập. Đồng thời, thị trường sữa Việt Nam cần minh bạch thông tin các sản phẩm sữa để bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng và doanh nghiệp. Đồng thời giúp giá sữa về với thực tế hơn, giúp người dân tiếp cận sữa có chất lượng sát với giá thành, khuyến khích doanh nghiệp sản xuất sữa tăng cường đầu tư, tăng sản lượng sữa tươi trong nước, giảm phụ thuộc và nhập khẩu.
Viện trưởng VEPR Nguyễn Đức Thành: “Vào TPP, ngành sữa sẽ đứng trước nhiều lựa chọn, phương án thứ nhất là phát triển chăn nuôi bò để lấy sữa. Đây là phương án tốt, tự chủ hơn, để có nguồn sữa tươi thực sự của Việt Nam. Phương án thứ hai, TPP đến mang cơ hội giảm thuế suất, việc nhập nguyên liệu dễ hơn thì cơ hội nhập sữa bột để về chế biến thành sữa hoàn nguyên có thể là sẽ gia tăng. Phương án thứ ba, các doanh nghiệp nước ngoài có thể nhập khẩu, đầu tư thêm vì lần đầu tiên xuất hiện ở thị trường này. Một trong ba phương án còn phụ thuộc vào nội lực của từng doanh nghiệp. Mỗi phương án đều có lợi thế riêng, quan trọng là phải xác định đúng mục đích, nếu không sẽ rất có thể đổ vỡ”. |