Thuế liên tục tăng vẫn không ngăn được lạm dụng rượu bia
- Theo nghiên cứu, chính sách thuế tiêu thụ đặc biệt đối với đồ uống có cồn thời gian qua có đạt được những mục tiêu đã đề ra không, thưa bà?
- Chính sách thuế tiêu thụ đặc biệt với đồ uống có cồn hướng đến mục tiêu: hạn chế lạm dụng đồ uống có cồn; góp phần tăng thu cho ngân sách; và bảo đảm môi trường kinh doanh thuận lợi, nuôi dưỡng nguồn thu. Tuy nhiên, sau gần 15 năm thực hiện, các mục tiêu này đều chưa đạt được một cách triệt để.
Cụ thể, từ 2010 - 2018, thuế tiêu thụ đặc biệt đối với rượu, bia được điều chỉnh tăng 5 lần nhưng khối lượng sử dụng đồ uống có cồn, tần suất sử dụng và việc lạm dụng rượu bia đều tăng lên. Theo dữ liệu của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), lượng tiêu thụ cồn nguyên chất ở Việt Nam tăng hơn gấp đôi trong vòng 10 năm, từ 3,8 lít/người/năm (2003 - 2005) lên 8,3 lít/người/năm (2015 - 2017). Khu vực phi chính thức vẫn chiếm phần lớn với 63,8% tổng lượng tiêu thụ cồn nguyên chất. Tỷ lệ dân số lạm dụng rượu bia tăng từ 1,4% (2010) lên tới 14,4% (2016) trong khi tỷ lệ người chưa bao giờ sử dụng rượu bia giảm từ 49,3% xuống 38,6%.
- Với 2 mục tiêu còn lại thì sao?
- Việt Nam đang áp dụng thuế tiêu thụ đặc biệt với đồ uống có cồn theo hướng thuế tương đối, tức là đánh thuế dựa vào giá buôn của sản phẩm. Vì vậy, nguồn thu ngân sách biến động nhiều hơn do sự biến động chi phí nguyên vật liệu đầu vào, tình hình kinh tế - xã hội vĩ mô.
Chính sách thuế hiện nay cũng chưa bảo đảm môi trường cạnh tranh thuận lợi, nuôi dưỡng nguồn thu. Thuế suất đối với khu vực chính thức thì gia tăng trong khi đó hơn 63% khối lượng cồn nguyên chất được tiêu thụ ở khu vực phi chính thức. Do không phải chịu kiểm soát và chi phí về thuế, chất lượng, bao bì, tem nhãn và tiêu thụ nên giá thành rượu, bia phi chính thức rẻ hơn. Điều này nguy hiểm cho sức khỏe người tiêu dùng, gây thiệt hại cho khu vực đồ uống có cồn chính thức và làm thất thu ngân sách.
- Vì sao chính sách thuế tiêu thụ đặc biệt với đồ uống có cồn chưa đạt được các mục tiêu như vậy?
- Mục tiêu chính sách thuế tiêu thụ đặc biệt với đồ uống có cồn của Việt Nam khá tương đồng với thế giới nhưng phương pháp tính thuế của chúng ta mới áp dụng thuế tương đối và đây là một trong những nguyên nhân.
Thuế tương đối mà nước ta đang áp dụng không có tác động trực tiếp làm giảm tiêu thụ cồn nguyên chất. Thậm chí trong dài hạn, thuế tương đối sẽ khuyến khích nhà sản xuất giảm giá thành sản phẩm thông qua giảm chất lượng sản phẩm. Về phía người tiêu dùng cũng sẽ có xu hướng sử dụng các sản phẩm giá rẻ hơn nhằm tiết kiệm chi phí. Do vậy, thuế tương đối sẽ dẫn đến sản xuất và tiêu thụ các sản phẩm giá rẻ và nồng độ cồn cao, gây tác động ngược đến mục tiêu giảm lượng cồn gây hại cho sức khỏe.
Tất nhiên, còn nhiều nguyên nhân khác ngoài chính sách thuế dẫn đến các mục tiêu đặt ra chưa đạt được như hiệu quả quản lý sản xuất rượu bia, kiểm soát hàng lậu, hàng giả, văn hóa và thói quen sử dụng rượu bia...
Thuế hỗn hợp giúp tăng thu ngân sách 25%
- Theo nhóm nghiên cứu, phương pháp tính thuế tiêu thụ đặc biệt nào sẽ giúp Chính phủ đạt được các mục tiêu chính sách với đồ uống có cồn?
- Chúng tôi khuyến nghị xem xét áp dụng phương pháp thuế hỗn hợp, tức là giữ nguyên mức thuế tương đối như hiện nay và áp thêm thuế tuyệt đối trên từng lít cồn nguyên chất đối với từng nhóm sản phẩm đồ uống có cồn, thay cho thuế tương đối hiện nay.
Nhóm nghiên cứu đã thực hiện kiểm chứng hiệu quả của thuế hỗn hợp thông qua các tính toán định lượng dựa trên mô hình thuế của Đại học Charles Sturt (Australia), nguồn số liệu của Tổng cục Thống kê và Tổ chức Nghiên cứu Rượu Quốc tế (IWSR). Khi áp dụng phương pháp thuế hỗn hợp sẽ khiến giá sản phẩm rượu ở phân khúc cao cấp rẻ hơn tương đối so với chính nó nếu áp thuế tương đối. Như vậy, người tiêu dùng sẽ chuyển sang sử dụng nhóm sản phẩm đồ uống có cồn với chất lượng tốt hơn, hạn chế việc sử dụng các sản phẩm rẻ tiền, không rõ nguồn gốc, không bảo đảm chất lượng an toàn thực phẩm… và do đó tăng thêm nguồn thu ngân sách từ khu vực đồ uống có cồn chính thức. Kết quả ước lượng cho thấy, thuế hỗn hợp giúp tăng thu ngân sách khoảng 25% so với thuế tương đối.
- Việc áp thuế hỗn hợp với đồ uống có cồn có phù hợp với bối cảnh của Việt Nam hiện nay không, thưa bà?
- Ở thời điểm hiện tại, các doanh nghiệp kinh doanh đồ uống có cồn đang chịu tác động nặng nề của đại dịch Covid-19. Do đó, nhóm nghiên cứu cho rằng hiện nay nên ưu tiên có các chính sách hỗ trợ, đặc biệt là về thuế, để giúp doanh nghiệp phục hồi và dần phát triển trở lại thay vì các đề xuất tăng thuế. Điều cần thiết hiện nay là tạo lập môi trường kinh doanh ổn định, dự đoán được, để thúc đẩy sự phục hồi của nền kinh tế.
Trong tương lai, khi điều chỉnh phương pháp tính thuế và tăng thuế suất thuế tiêu thụ đặc biệt, nên xem xét áp dụng phương pháp thuế hỗn hợp. Hiện nay nhiều nước phát triển đã chuyển hoàn toàn sang đánh thuế tuyệt đối (như Australia, Canada, Nhật Bản, Mỹ và hầu hết các nước OECD) và các nước láng giềng và có điều kiện kinh tế tương tự Việt Nam cũng đã chuyển dần sang thuế tuyệt đối hoặc hỗn hợp (như Indonesia, Philippines, Thái Lan và Malaysia). Để áp dụng thuế hỗn hợp, công tác quản lý nhà nước cũng sẽ phức tạp hơn do đòi hỏi hiểu biết sâu, toàn diện về giá, nồng độ cồn của sản phẩm… vì vậy cần nâng cao hiệu quả và hoàn thiện quy trình quản lý, giám sát một cách chặt chẽ nhất.
Bên cạnh đó, để chính sách thuế tiêu thụ đặc biệt đạt hiệu quả cao nhất, nhóm nghiên cứu cho rằng cần triển khai đồng bộ các nhóm giải pháp khác nhằm quản lý việc tiêu thụ đồ uống có cồn, đặc biệt là giám sát và quản lý tốt hơn khu vực đồ uống có cồn phi chính thức; truyền thông mạnh mẽ hơn về các chính sách pháp luật phòng, chống tác hại của lạm dụng đồ uống có cồn, không nấu rượu trái phép; thực hiện nghiêm túc, quyết liệt việc xử phạt hành vi lạm dụng đồ uống có cồn gây ảnh hưởng đến xã hội…
- Xin cảm ơn bà!