Phát triển bền vững tài nguyên nước

- Thứ Tư, 23/12/2020, 17:15 - Chia sẻ
Triển khai Nghị quyết 120/NQ-CP của Chính phủ về phát triển bền vững vùng đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) thích ứng với biến đổi khí hậu (BĐKH), đặc biệt ứng phó với mùa hạn, mặn năm nay, Bộ Tài nguyên và Môi trường sẽ tăng cường nguồn lực đầu tư cho hạ tầng về nước, nhất là nước sinh hoạt, hồ chứa cho các vùng thường xuyên bị khô hạn, các dự án biến đổi khí hậu và quản lý tài nguyên nước đặc biệt là quan trắc tài nguyên nước mặt, nước ngầm hỗ trợ địa phương phát huy được vai trò điều tiết nước các công trình thủy lợi giúp người dân củng cố niềm tin khắc phục được thiên tai hạn, mặn.

Để bảo đảm an ninh nguồn nước, thời gian qua, Chính phủ và các bộ, ngành hữu quan đã triển khai nhiều giải pháp, như tập trung lập quy hoạch tài nguyên nước; điều tra, đánh giá tài nguyên nước; kiểm soát chất lượng nước; phòng chống ô nhiễm nguồn nước; quản lý vấn đề xả thải vào lưu vực sông, thúc đẩy sử dụng tài nguyên nước tiết kiệm hiệu quả; lập, quản lý hành lang bảo vệ nguồn nước, vùng bảo hộ vệ sinh khu vực cấp nước sinh hoạt; xử lý sự cố ô nhiễm nguồn nước; tăng cường hợp tác quốc tế trong quản trị nguồn nước, quản lý sông quốc tế. Các giải pháp được các thành viên Chính phủ nêu ra tại cuộc giải trình là tăng cường nguồn lực đầu tư cho hạ tầng về nước, nhất là nước sinh hoạt, hồ chứa cho các vùng thường xuyên bị khô hạn, các dự án biến đổi khí hậu và quản lý tài nguyên nước; xây dựng đề án chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, chuyển đổi sản xuất quy mô lớn để thích ứng với điều kiện tự nhiên ở các vùng thường xuyên bị hạn hán; thực hiện các biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng tài nguyên nước trong sản xuất nông nghiệp; tiếp tục thúc đẩy các cơ chế hợp tác trong chia sẻ nguồn nước xuyên biên giới…

Trước diễn biến của biến đổi khí hậu ngày càng gay gắt tại vùng ĐBSCL, ngoài các giải pháp phi công trình thì giải pháp công trình cho việc ngăn mặn trữ ngọt, tạo nguồn dẫn nước ngọt phục vụ sản xuất có ý nghĩa rất quan trọng, phát huy được hiệu quả. Điển hình như công trình thủy lợi Phước Hòa tại địa bàn huyện Đức Hòa, tỉnh Long An là một minh chứng. Ngay trong mùa khô hạn 2020, nếu như nhiều địa phương ở khu vực ĐBSCL nói chung, đang phải gồng mình chống hạn thì ngay trên vùng thượng huyện Đức Hòa (tỉnh Long An), người dân vẫn tăng gia sản xuất và đang thu về lợi nhuận rất cao hơn 100 triệu đồng/ha/vụ trong ba tháng sản xuất mùa khô hạn.

Để ứng phó tình hình hạn mặn, tỉnh Bến Tre đã gấp rút hoàn thành các công trình như: đập tạm trên sông Ba Lai, đập tạm sông Mã (huyện Châu Thành); cống ngăn mặn thuộc dự án bắc Bến Tre, nạo vét các tuyến kênh nhằm trữ nước ngọt và ngăn mặn... Đồng thời, khuyến cáo người dân sử dụng tiết kiệm nước, sử dụng các giải pháp kỹ thuật để canh tác phù hợp, dùng mọi dụng cụ để trữ nước ngọt và theo dõi chặt chẽ tình hình mặn để có giải pháp kịp thời. Hiện tại, trên địa bàn tỉnh Bến Tre có 140 cống nhằm ngăn mặn, trữ ngọt và điều tiết nước phục vụ sản xuất nông nghiệp. Trong thời gian qua, Công ty khai thác công trình thủy lợi tỉnh Bến Tre đã tập trung khai thác, vận hành hệ thống cống nhằm phục vụ người dân. Tuy nhiên, do bao bọc bởi ba dải cù lao, chung quanh toàn là sông nước nên hệ thống thủy lợi vẫn chưa hoàn chỉnh. Nhiều nơi vẫn còn hở nên nước mặn xâm nhập vào nội đồng ảnh hưởng lớn đến sản xuất và sinh hoạt của người dân. Ông Hồ Ngọc Hậu, Phó Giám đốc Công ty khai thác công trình thủy lợi tỉnh Bến Tre cho rằng, trong mùa xâm nhập mặn năm nay, công ty phối hợp các địa phương thực hiện nhiều giải pháp hạn chế tối đa thiệt hại. Trong đó, khuyến cáo người dân trước khi tưới phải đo độ mặn. Đối với các công trình đập tạm tuy nhiễm mặn nhưng vẫn thấp hơn nhiều so với bên ngoài nên có thể phục vụ sinh hoạt cho người dân. Công ty sẽ thường xuyên kiểm tra độ mặn nếu độ mặn sông Tiền giảm sẽ lấy vào và tiêu xổ phía trong con kênh, để nhanh chóng giảm độ mặn phục vụ sản xuất cho bà con trong khu vực.

Ông Lê Thanh Tùng, Phó Cục trưởng Cục Trồng trọt (Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn) cho biết, để chủ động ứng phó với hạn, mặn phải phát huy biện pháp tích nước, trữ nước theo từng cấp. Theo đó, tỉnh chịu trách nhiệm quản lý ngăn mặn các kênh cấp 1, 2. Các sở, ngành cấp tỉnh, huyện phải tính toán được lượng nước ngọt cung ứng cho bao nhiêu diện tích để đề ra phương án cấp nước chủ động, đầy đủ. Ở cấp hộ gia đình, nhóm hộ dân những cánh đồng quy mô 30 - 50ha nên có biện pháp chủ động tích nước tại chỗ phục vụ ruộng lúa, nông dân cũng tận dụng ao hồ, mương nước để tích nước ngọt phục vụ tưới tiêu. Qua đợt hạn mặn này, người dân có thể thay đổi thiết kế ruộng, vườn. Những vườn cây mới chuyển đổi như ở Tiền Giang, Long An phải tính toán thiết kế các mương nước, ao nước trong vườn cây sao cho bảo đảm tích nước ngọt phục vụ tưới tiêu ngay cả trong hạn, mặn. Các cơ quan chuyên môn phải tính toán và đưa ra mô hình hiệu quả để tư vấn cho người dân thực hiện. Bên cạnh đó, phải tính toán cơ cấu mùa vụ thật khoa học để giảm thiểu thiệt hại thiên tai cho nông dân.

Việt Anh