52% doanh nghiệp đánh giá chuyển đổi xanh chưa thật sự cần thiết
Tại Hội nghị COP 26, Việt Nam lần đầu tiên cam kết sẽ đạt phát thải ròng bằng 0 (Net Zero) vào năm 2050. Mục tiêu này cũng đã được đưa vào Chiến lược Quốc gia về biến đổi khí hậu giai đoạn đến năm 2050, theo Quyết định 896/QĐ-TTg ngày 26.7.2022 của Thủ tướng Chính phủ.
Song song với việc thực hiện hoạt động, biện pháp giảm phát thải khí nhà kính và tăng cường hấp thụ khí nhà kính trong các lĩnh vực như năng lượng, nông nghiệp, lâm nghiệp và sử dụng đất, chất thải, các quá trình công nghiệp và sử dụng sản phẩm công nghiệp, thì thị trường carbon là một trong những công cụ hữu hiệu để đạt mục tiêu Net Zero.
Phát biểu tại tọa đàm, Phó Giám đốc Văn phòng Ban Nghiên cứu phát triển kinh tế tư nhân, thuộc Hội đồng Tư vấn cải cách thủ tục hành chính của Thủ tướng (Ban IV) Bùi Thanh Minh cho biết, Ban IV đã xây dựng "Báo cáo xanh trên cơ sở khảo sát doanh nghiệp về chuyển đổi xanh, giảm phát thải hướng tới Net Zero". Báo cáo nằm trong chuỗi các hoạt động của Ban Nghiên cứu phát triển kinh tế tư nhân, mục đích hỗ trợ Thủ tướng Chính phủ, các doanh nghiệp bắt kịp xu hướng chuyển đổi xanh ở Việt Nam và trên thế giới.
Báo cáo cho thấy, thị trường tín chỉ carbon Việt Nam đang phát triển chậm hơn so với mong đợi của các bên liên quan, cũng như với sự chuyển động của thị trường quốc tế.
Trong 2 năm triển khai, "Báo cáo xanh trên cơ sở khảo sát doanh nghiệp về chuyển đổi xanh, giảm phát thải hướng tới Net Zero" đã đạt được các kết quả nổi bật.
Thứ nhất, báo cáo khẳng định chuyển đổi xanh là một "cuộc chơi" mang tính toàn cầu, một cuộc đua giữa các quốc gia. Các thị trường xuất khẩu lớn của Việt Nam như EU, Mỹ hay Trung Quốc đều có những hệ thống chính sách liên quan đến chuyển đổi xanh. Trong đó nhiều nhất là các chính sách liên quan đến thị trường tín chỉ carbon.
Thứ hai, chuyển đổi xanh không phải một chính sách riêng lẻ, mà đòi hỏi một tổng thể tất cả chính sách từ tài khóa, đầu tư, hay từ việc tái cấu trúc nền công nghiệp ra sao. Ví dụ như Trung Quốc luôn có quy chế tài chính rõ ràng cho chuyển đổi xanh quốc gia.
Thứ ba, trong bối cảnh các thị trường chuyển động nhanh chóng, thì doanh nghiệp Việt Nam khó đáp ứng theo chuyển động của thị trường quốc tế. Kết quả khảo sát trên diện rộng từ 2.734 cơ sở về mức độ sẵn sàng của doanh nghiệp Việt Nam với việc chuyển đổi xanh mà Ban Nghiên cứu phát triển kinh tế tư nhân thực hiện, có 52% doanh nghiệp tham gia khảo sát đánh giá chuyển đổi xanh chưa thật sự cần thiết. Có 64% doanh nghiệp chưa chuẩn bị trong việc chuyển đổi xanh. Chỉ có 3,7% doanh nghiệp đã tiến hành kiểm kê, chủ yếu kiểm kê năng lượng.
Kết quả này khi so sánh với chuyển động của thế giới, hay so sánh với cam kết mạnh mẽ của Thủ tướng Chính phủ tại COP26 là những con số khá bất ngờ và rất đáng lo ngại.
"Thị trường tín chỉ carbon là mảnh ghép quan trọng và cần có chính sách thúc đẩy, đầu tư một cách đồng bộ, toàn diện. Vấn đề hiện tại là làm thế nào để Việt Nam tiếp cận hiệu quả dòng vốn quốc tế và các giải pháp kỹ thuật của quốc tế, để hoạt động chuyển đổi xanh không bị đình trệ", ông Minh đánh giá.
Ba thách thức của doanh nghiệp Việt khi thực hiện chuyển đổi xanh
Bên cạnh những cơ hội và lợi ích, chuyển đổi xanh cũng đặt ra nhiều thách thức và khó khăn cho doanh nghiệp, đặc biệt là ở Việt Nam - một quốc gia đang phát triển nhanh chóng với nền kinh tế đa dạng và sự đa dạng văn hóa.
Theo Phó Giám đốc Văn phòng Ban Nghiên cứu phát triển kinh tế tư nhân, thuộc Hội đồng Tư vấn cải cách thủ tục hành chính của Thủ tướng (Ban IV) Bùi Thanh Minh, có 3 khó khăn lớn mà doanh nghiệp phải đối mặt khi tập trung thực hiện chuyển đổi xanh:
Thứ nhất, hạn chế về vốn. Trên 5% doanh nghiệp gặp khó khăn về vốn. Khi chuyển đổi xanh, chắc chắn phải chuyển đổi công nghệ và đòi hỏi nhiều nguồn vốn. Trong khi đó, các danh mục, dự án xanh, ngôn ngữ xanh để các ngân hàng tổ chức cho doanh nghiệp vay vốn chưa ban hành.
Thứ hai, khó khăn về nhân sự. Vẫn còn khoảng 48% doanh nghiệp hiện nay đang thiếu nhân sự chuyển đổi xanh. Bởi việc đào tạo lực lượng lao động mang hàm lượng kỹ thuật cao, có tay nghề cao không thể ngày một, ngày hai mà thành.
Thứ ba, thiếu giải pháp về kỹ thuật. Khi làm việc với các tổ chức đầu tư hoặc ngân hàng đầu tư nước ngoài, có thể thấy các quốc gia khác đã đi trước rất nhiều. Bởi họ có giải pháp kỹ thuật cho từng ngạch, cho từng lĩnh vực doanh nghiệp, cấp độ doanh nghiệp, từng địa phương, thậm chí có thể đi bán giải pháp đó.
"Việt Nam hiện tại mới bắt đầu từ việc kiểm kê khí nhà kính, nhưng chưa thật sự kiểm kê. Nên sẽ rất khó khăn khi thị trường tín chỉ carbon hình thành như vậy. Bởi muốn hình thành thị trường phải có hàng hóa. Để hàng hóa trao đổi được, các bên liên quan phải hiểu được về hàng hóa đó. Cơ chế thị trường cần thúc đẩy như vậy", ông Bùi Thanh Minh khẳng định.