3 giai đoạn phát triển
Ban đầu, phong trào Làng mới không phải là một dự án lớn. Mãi đến năm 1973, tức là sau 3 năm thực hiện thực tế, Chính phủ mới lập mục tiêu phát triển dài hạn, tổng cộng là 10 năm và chia thành 3 giai đoạn.
Giai đoạn cơ sở (1970 - 1973): Xây dựng cơ sở hạ tầng
Giai đoạn này tập trung phát động tinh thần làng mới của người dân qua việc thực hiện chương trình cải thiện môi trường sống cơ bản và chương trình tăng thu nhập thông thường. Có thể nói rằng, đây là giai đoạn quan trọng nhất, thành công mà nó có được sẽ là bệ phóng để thực hiện những bước tiếp theo.
Năm đầu tiên 1971, chính phủ lợi dụng mùa nông nhàn của nông dân đưa ra thử nghiệm 10 chương trình dự án gồm: Trồng cây gây rừng, mở rộng đường sá, làm cầu cống, nhà vệ sinh, nạo vét kênh mương, xây dựng khu giặt giũ và giếng nước công cộng, diệt chuột…
Chính phủ hỗ trợ 335 bao xi măng cho 33.267 làng trên toàn quốc, toàn bộ dự án do chính làng đó quản lý, chính quyền cùng người dân bàn bạc, quyết định loại công trình, dự án nào cần làm trước và làm mọi việc bằng chính sức lực và tiền của của mình. Mỗi làng tiến cử một người có năng lực, không phân biệt nam nữ giữ vai trò lãnh đạo cùng mọi người lập kế hoạch và thực hiện kế hoạch, mọi người tự nguyện tham gia đông đủ, kết quả là sau một năm thực hiện, hơn một nửa tổng số làng được cải thiện đời sống.
Năm 1972, dựa vào kết quả thực hiện của năm 1971, Chính phủ xúc tiến thực hiện phong trào Làng mới thực tế hơn, đó là đưa ra chính sách cạnh tranh với việc chọn ra 16.600 làng có thành tích xuất sắc trong năm 1971, hỗ trợ cho mỗi làng 500 bao xi măng và 1 tấn sắt theo phương châm hỗ trợ những làng biết vượt lên khó khăn, cán bộ có tâm huyết, người dân hưởng ứng nhiệt tình. Ngoài những làng được Chính phủ hỗ trợ trong năm thứ hai này, còn có 6.108 làng tự nguyện tham gia phong trào thi đua bằng sức lực và tiềm năng sẵn có của mình, nâng tổng số làng tham gia phong trào lên 22.708 làng (chiếm 68%). Nhờ đó mà bộ mặt nông thôn Hàn Quốc thay đổi, khắp nơi người dân thi đua cải tạo nhà tranh vách đất thành mái ngói, tường xây, đường sá được nâng cấp, mở rộng, cầu cống được xây dựng tạo điều kiện thuận lợi cho việc gia tăng thu nhập phi nông của người dân, nông nghiệp dần được cơ giới hóa, làng xã phát triển với tốc độ nhanh, người dân đã lấy lại sự tự tin. Những làng thực hiện tốt còn được Chính phủ ưu tiên cung cấp điện trước, tính đến thời điểm đó đã có khoảng 40% dân số ở nông thôn mắc điện thoại cố định.
Sang năm thứ ba 1973, Chính phủ thực hiện phân loại các làng theo ba tiêu chuẩn: Cơ sở, tự lực, tự lập nhằm khuyến khích các làng phát huy tinh thần tự lực, làm chủ, thi đua nhau thực hiện tốt dự án và có kế hoạch hỗ trợ phù hợp. Toàn quốc có 34.665 làng tham gia phong trào thi đua, mỗi làng được cấp 500 bao xi măng và 1 tấn sắt, kết quả có 18.415 làng đạt danh hiệu làng cơ sở, 13.943 làng tự lực và 2.307 làng tự lập. Cũng trong năm này, Chính phủ thành lập 170 “nhà máy làng mới” nhằm tạo ra công ăn việc làm, nâng cao thu nhập cho người dân.
Chặng đường mở đầu bốn năm tuy không dài nhưng phong trào Làng mới đã gặt hái thành công rất lớn với các chương trình dự án cải tạo môi trường sống, tăng thu nhập và cải tổ nhận thức của người dân. Môi trường sống ở nông thôn hoàn toàn đổi khác: Đường sá được mở rộng, nhà tranh vách đất được thay thế bằng nhà ngói, tường xây, các khu công cộng được xây dựng, nạn đói nghèo bắt đầu giảm, suy nghĩ và hành động của người dân thay đổi rất nhiều, nạn cờ bạc rượu chè, mê tín giảm hẳn. Thành công vang dội của phong trào làng mới ở giai đoạn cơ sở (1970 - 1973) là kết quả của sự kết hợp hài hòa giữa chính phủ và nhân dân với niềm tin quyết thắng mang tính thời đại, đồng thời là tiền đề quan trọng cho việc triển khai phong trào Làng mới trên phạm vi toàn quốc ở các giai đoạn tiếp theo.
Giai đoạn phát triển tự lực (1974 - 1976): Nâng cao thu nhập
Trong giai đoạn này, ba chương trình cải tạo môi trường sống, chương trình tăng thu nhập và chương trình cải tổ ý thức của người dân vẫn tiếp tục được thực hiện có điều thứ tự ưu tiên thực hiện có sự thay đổi. Chương trình gia tăng thu nhập cho người dân được chú trọng hơn cả. Cụ thể, năm 1974, Chính phủ tập trung thực hiện chương trình gia tăng thu nhập cho người dân qua việc phát triển hệ thống thủy lợi, thực hiện phương pháp canh tác tổng hợp thay cho tập quán trồng lúa và lúa mạch trước đây, thành lập các khu liên hiệp sản xuất vừa gia tăng thu nhập vừa khuyến khích người dân giúp đỡ lẫn nhau, thậm chí có thể giảm thiểu được các chi phí không hợp lý, tìm kiếm các giải pháp tăng nguồn thu cho người dân từ việc nuôi lợn, bò, gà… Kết quả là thu nhập của người dân ở nông thôn năm 1974 cao hơn thành thị, sản lượng lương thực tăng đến mức có thể tự cấp tự túc, lấy lại sức sống cho vùng nông thôn và góp phần quan trọng cho sự tăng trưởng kinh tế của cả nước.
Năm 1973, tổng sản phẩm quốc nội (GDP) là 375 USD thì đến năm 1976 đã tăng lên 765 USD, gấp 2 lần so với năm 1973.
Chương trình cải tạo môi trường sống của người dân ở nông thôn tiếp tục mở rộng với việc ngói hóa, bê tông hóa tường xây, sửa sang xây mới nơi ăn chốn ở, lắp đặt hệ thống nước, xây dựng trung tâm giải trí của làng. Đến năm 1976 trên địa bàn nông thôn, nhà tranh vách đất không còn hiện diện, nhà bếp và khu vệ sinh được xây dựng hiện đại, điều kiện vệ sinh được cải thiện rõ rệt.
Bên cạnh đó, Chính phủ tăng cường giáo dục về làng mới nhằm nuôi dưỡng năng lực và khí chất của người lãnh đạo làng mới, mặt khác, mở rộng cơ hội được đào tạo cho mọi tầng lớp từ các công chức nhà nước, các tầng lớp lãnh đạo trong xã hội tới dân thường giúp họ có nhận thức đúng đắn về phong trào làng mới và tích cực tham gia phong trào.
Giai đoạn hoàn thành tự lập (1977 - 1979): Hoàn chỉnh hệ thống phúc lợi
Giai đoạn hoàn thành tự lập được coi là thời kỳ phát triển “chiều sâu” của phong trào với việc phong trào không chỉ dừng lại ở nông thôn mà còn lan sang khu vực thành thị.
Ở thành thị, phong trào Làng mới bắt đầu với việc thực hiện ba chiến dịch là chiến dịch tinh thần, chiến dịch hành động, chiến dịch môi trường. Chiến dịch tinh thần nhấn mạnh đến việc tôn trọng người lớn, sống căn cơ tiết kiệm và biết giúp đỡ lẫn nhau. Chiến dịch hành động nhấn mạnh đến việc giữ trật tự giao thông, hành xử có đạo đức nơi công cộng, kinh doanh buôn bán đứng đắn. Chiến dịch môi trường nhấn mạnh đến việc giữ vệ sinh môi trường sống, giữ gìn môi trường đường phố và bảo vệ môi trường.
Sau khi đã có thu nhập khá giả, nhà nước mới cùng với nhân dân, doanh nghiệp và cộng đồng tiến hành điện khí hóa, phổ cập điện thoại, hoàn chỉnh hệ thống nhà trẻ, trường học, y tế, thư viện, hệ thống cấp nước, phát triển tín dụng nông thôn, nâng mức sống của cư dân nông thôn lên hiện đại như đô thị đồng thời thu hút doanh nghiệp đầu tư về nông thôn. Hàng loạt dự án đã được thực hiện như mở trường học công nghiệp, mở rộng hệ thống phúc lợi trong nhà máy, cải thiện phúc lợi xã hội cho người lao động…
Kết quả quan trọng nhất giai đoạn này không phải là đô thị hóa nông thôn mà là hài hòa phát triển kinh tế xã hội cả nước, đưa cư dân đô thị về sống, về du lịch nông thôn, gắn đô thị với nông thôn và phát triển công nghiệp chế biến, gắn công nghiệp với nông nghiệp…