1946 - Hội đồng Chính phủ vừa lập pháp, vừa hành pháp
Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, tình thế đất nước muôn vàn khó khăn. Giai đoạn này đã đánh dấu vai trò hết sức quan trọng của Hội đồng Chính phủ, tập hợp lực lượng xây dựng và bảo vệ chính quyền cách mạng. Có thể nói, sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh thông qua các hoạt động của Hội đồng Chính phủ đã đưa đất nước vượt qua thời kỳ khó khăn và phức tạp này.
Hội đồng Chính phủ thời kỳ này đảm nhận vai trò lập pháp của Quốc hội, một mặt ban hành các sắc lệnh, mặt khác gánh vác vai trò là cơ quan hành pháp thực hiện việc điều hành và quản lý đất nước trên tất cả lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa và quân sự.
Ngay sau ngày tuyên bố độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã triệu tập phiên họp đầu tiên của Hội đồng Chính phủ vào ngày 3.9.1945. Trong phiên họp này, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ nêu lên 6 vấn đề cấp bách mà Chính phủ lâm thời phải tập trung giải quyết: giải quyết nạn đói; thanh toán nạn dốt; tổ chức Tổng tuyển cử; xóa bỏ hủ tục; bỏ ngay các thứ thuế bóc lột vô nhân đạo; và tự do tín ngưỡng, lương giáo đoàn kết. Dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Hội đồng Chính phủ đã liên tục nhóm họp đề ra những quyết sách lớn. Vì vậy, chỉ trong một thời gian ngắn, nạn đói và nạn dốt bước đầu được đẩy lùi, đồng thời thực hiện mềm dẻo trong sách lược đối với quân Tưởng, chèo lái con thuyền cách mạng đứng vững trong giai đoạn đầy khó khăn, phức tạp.
![]() Chính phủ Việt Nam lâm thời sau phiên họp Chính phủ đầu tiên, ngày 3.9.1945 |
Trong những ngày cuối tháng 9.1945, tình hình quân sự ngày càng phức tạp. Ngày 23.9.1945, dưới sự hỗ trợ của quân Anh, thực dân Pháp đã nổ súng xâm lược Sài Gòn. Trong thời gian này, Hội đồng Chính phủ ngày nào cũng nhóm họp để tìm cách đối phó với âm mưu xâm lược của địch. Các chính sách của Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng Hội đồng Chính phủ thời kỳ này luôn bình tĩnh, chủ động, đầy bản lĩnh trước những âm mưu của kẻ thù, với mục tiêu kiên định con đường độc lập dân tộc, cứng rắn về mặt nguyên tắc, mềm dẻo trong sách lược, nhờ đó đã lần lượt đẩy lùi âm mưu của các thế lực phản động, bảo vệ an toàn tuyệt đối chính quyền cách mạng dân chủ nhân dân mới được xác lập. Với tư cách cơ quan lãnh đạo cao nhất của nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Hội đồng Chính phủ đã thống nhất ban hành nhiều sắc lệnh để tiến hành Tổng tuyển cử, dự thảo Hiến pháp.
Lần đầu tiên trong lịch sử Việt Nam, một cuộc Tổng tuyển cử đã thành công rực rỡ. Ở 71 tỉnh, thành trong cả nước có 89% cử tri đi bỏ phiếu, cả nước bầu được 333 đại biểu, trong đó 57% số đại biểu thuộc các đảng phái khác nhau, 43% đại diện không đảng phái, 87% đại biểu là công nhân, nông dân, các chiến sĩ cách mạng, 10 đại biểu là phụ nữ, 34 đại biểu đại diện cho các dân tộc thiểu số... Thắng lợi của Tổng tuyển cử bầu ra Quốc hội là mốc son chói lọi, là bước tiến nhảy vọt đầu tiên của thể chế dân chủ Việt Nam.
Những khó khăn và phức tạp của tình hình đất nước thời kỳ này cần có sự lãnh đạo, điều hành thống nhất, Quốc hội đã ủy nhiệm sự lãnh đạo toàn dân cho Chính phủ thông qua các cuộc họp của Hội đồng Chính phủ. Ban Thường trực Quốc hội luôn sát cánh cùng Hội đồng Chính phủ, bàn bạc, tham gia ý kiến về những chủ trương và chính sách lớn.
Sau Tổng tuyển cử, ở miền Bắc quân Pháp từ Vân Nam (Trung Quốc) quay trở lại chiếm Lai Châu, Tuần Giáo, Điện Biên phủ và một số địa phương ở Tây Bắc. Ở miền Nam quân Pháp mở rộng đánh chiếm Tây Nguyên và Nam Trung bộ, bọn phản động Việt Quốc, Việt Cách gây sức ép với Chính phủ lâm thời đòi giải tán Chính phủ lâm thời, lập ra Chính phủ Liên hiệp quốc gia. Phiên họp Hội đồng Chính phủ ngày 4.3.1946 đã đề ra chính sách đàm phán với Pháp trên nguyên tắc Việt Nam độc lập. Chủ tịch Hồ Chí Minh được Chính phủ ủy quyền quyết định chính sách ngoại giao và đàm phán với Pháp. Để chuẩn bị cho nội dung ký Hiệp định Pháp - Việt, Người đã đi đàm phán những nội dung cơ bản với đại diện của Pháp bằng giải pháp: nước Pháp phải công nhận Việt Nam là một quốc gia tự do. Bằng sự mềm dẻo về sách lược, kiên trì đàm phán của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Pháp đã chấp nhận đề nghị và ký Hiệp định Sơ bộ 6.3. Nhờ đó, chúng ta đã đẩy nhanh quân Tưởng về nước, loại trừ cho cách mạng một kẻ thù nguy hiểm, phá tan âm mưu của các thế lực đế quốc câu kết với nhau, hòng bán đứng Việt Nam cho Pháp, dành thêm thời gian hòa bình để xây dựng và củng cố lực lượng về mọi mặt, chuẩn bị cho cuộc kháng chiến lâu dài.
Để củng cố hệ thống chính quyền từ Trung ương đến cơ sở, ngày 22.6.1946, Hội đồng Chính phủ ra Sắc lệnh 63/SL về Tổ chức chính quyền Hội đồng Nhân dân và ủy ban hành chính được bầu ở các cơ sở. Ngày 29.3.1946, Chính phủ ban hành Sắc lệnh số 23/SL thành lập Việt Nam Công an, cơ quan an ninh quốc gia, có hệ thống tổ chức từ Trung ương đến cơ sở. Thành lập một số đảng phái dân chủ như: Mặt trận Liên Việt (28.5.1946), Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam (27.5.1946), Đảng Xã hội Việt Nam (27.7.1946)..., các tổ chức này hoạt động trong khối đại đoàn kết dân tộc, củng cố vững chắc Mặt trận đoàn kết dân tộc, thống nhất quốc gia.
Trước sau như một, nhân dân Việt Nam mong muốn hòa bình để xây dựng cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Nhưng thực dân Pháp đã bội ước Hiệp định Sơ bộ 6.3 và Tạm ước 14.9, chúng cho quân đánh chiếm Hà Nội và Hải Phòng, Lạng Sơn và một số địa phương khác. Trước sự tráo trở của thực dân Pháp, ngày 17.12.1946, Hội đồng Chính phủ đã họp. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã báo cáo trước các đại biểu thống nhất quyết định phát động cuộc chiến tranh trong cả nước. Đêm 19.12.1946, thực hiện chủ trương của cuộc họp Hội đồng Chính phủ, tại Vạn Phúc (Hà Đông), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến, sau đó đã chủ động sơ tán các cơ quan đầu não của Trung ương Chính phủ lên chiến khu Việt Bắc để củng cố lực lượng, chuẩn bị mọi mặt để lãnh đạo nhân dân tiến hành kháng chiến lâu dài với thực dân Pháp.
Có thể nói, sau khi giành được độc lập từ tay thực dân Pháp và phát xít Nhật, tình hình đất nước đến tháng 12.1946 diễn ra với nhịp điệu khẩn trương, sôi động, ẩn chứa rất nhiều khó khăn và phức tạp. Dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Hội đồng Chính phủ - nơi tập hợp những nhân sỹ, trí thức ưu tú nhất đã đưa dân tộc giành được những thắng lợi có ý nghĩa quan trọng, bước đầu xây dựng và củng cố chính quyền cách mạng, đấu tranh chống các thế lực phản động trong và ngoài nước, xây dựng bản Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa - Hiến pháp của một nhà nước do nhân dân làm chủ, tôn trọng quyền tối thiểu của nhân dân. Thắng lợi quan trọng đó ghi dấu ấn và thể hiện vai trò quan trọng của Hội đồng Chính phủ đối với vận mệnh của đất nước. Thắng lợi của giai đoạn này là tiền đề quan trọng để quân và dân ta tự lực vươn lên, xây dựng và bảo vệ chế độ mới, tích cực chuẩn bị mọi mặt cho kháng chiến ở giai đoạn sau.
Sách Lịch sử Chính phủ Việt Nam 1, 1945 -1955 (NXB Chính trị quốc gia - 2005) đánh giá: “Hoạt động của Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh với tư cách là Chủ tịch Chính phủ trên tất cả các mặt: chính trị, kinh tế - tài chính, quân sự, an ninh, văn hóa - xã hội và ngoại giao đều nhằm thực hiện sự nghiệp kháng chiến và kiến quốc, để giữ vững quyền độc lập và tự do... Những hoạt động của Chính phủ làm cho bộ máy chính quyền Nhà nước được từng bước tổ chức chặt chẽ và toàn diện, với đủ cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp trở thành công cụ sắc bén phục vụ sự nghiệp kháng chiến và kiến quốc”.
Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa thời kỳ 1945 - 1946, nhất là năm 1946 cho thấy một mô hình nhà nước kỳ lạ nhưng đặc biệt hiệu quả, xứng đáng được nghiên cứu và đánh giá đúng với tầm vóc của nó.