140 năm ngày sinh Phan Bội Châu (1867-2007): Nhà yêu nước lớn Phan Bội Châu

30/12/2007 00:00

Với Phan Bội Châu, trước hết và trọn vẹn đó là một nhà Nho yêu nước lớn nhất của Việt Nam, xứ Nghệ trong hai thập niên đầu thế kỷ XX. Nhà yêu nước với đường đời và sự nghiệp nằm trọn vẹn trong bối cảnh nước mất, từ lúc sinh ra (1867) đất nước đã chìm trong khói súng của chủ nghĩa thực dân; và khi qua đời (1940), đất nước vẫn còn trong tối tăm nô lệ.

140 năm ngày sinh Phan Bội Châu (1867-2007): Nhà yêu nước lớn Phan Bội Châu ảnh 1

      Với Phan, cũng như các chí sỹ khác thuộc thế hệ ông, nước không bao giờ là một khái niệm trừu tượng. Đó không chỉ là một lọ vàng - “ông cha ta để cho ta lọ vàng”, mà con cháu phải ra sức gìn giữ. (Nửa thế kỷ sau ta gặp lại ý tưởng này ở Hồ Chí Minh- người cũng từng nói đến lòng yêu nước luôn phải được giữ gìn trong lọ quý). Đó còn là một cơ thể sống - gồm cả phần hồn và phần xác; và nếu phần xác đang bị đọa đầy cho xơ xác, tàn tạ, thậm chí tiêu hủy thì phần hồn vẫn còn đó và trách nhiệm của những ai có lòng yêu nước là phải gọi cho được hồn về.

      

Xin hồn hãy tỉnh đừng mê!
      ...
      Hồn cố quốc vẩn vơ, vơ vẩn
      Khôn tìm đường dò nhắn hỏi han
      Bâng khuâng đỉnh núi non ngàn   

      Nhân kỷ niệm 140 năm Ngày sinh Phan Bội Châu (1867 – 2007), ngày 25.12, Hội Văn học dân gian phối hợp với Sở VH-TT Nghệ An tổ chức hội thảo với chủ đề Phan Bội Châu với xứ Nghệ, xứ Nghệ với Phan Bội Châu, thu hút nhiều Giáo sư, nhà nghiên cứu khoa học lớn trong nước tham gia. Các tham luận và ý kiến đóng góp về cuộc đời, sự nghiệp của Phan Bội Châu cho thấy, di sản của Phan Bội Châu để lại cho hậu thế, không chỉ là kho tàng trứ tác đồ sộ, phong phú chứa đựng lượng tri thức khổng lồ mà còn là một nhân cách cao đẹp, tư duy nhạy bén và mẫn tiệp.

      Khói tuôn khí uất sóng cuồn trận đau
      Hồn nước - đó quả là một cách hình dung mới để biểu đạt tình yêu nước của thế hệ Phan Bội Châu. Và dường như cách biểu đạt này chưa hề xuất hiện trong lịch sử chống chọi với phong kiến phương Bắc nhiều nghìn năm. Sự xuất hiện một kẻ thù mới đã buộc dân tộc phải tìm đến một chủ nghĩa yêu nước mới, cụ thể hơn, thống thiết hơn, giục giã hơn; và Phan là người sớm tiếp cận để đem lại cho nó một cách biểu hiện mới, vừa bằng một lý trí tỉnh táo, vừa với một cảm xúc nồng nàn. Cần một kết hợp cả lý trí và tình cảm, bởi thiếu một thì chưa đủ để biểu đạt cái mới mà Phan và thế hệ Phan đã đem lại cho đời sống tinh thần dân tộc Việt Nam đầu thế kỷ XX. Lý trí tỉnh táo (và sáng suốt) - đó là việc thừa nhận sự thất bại hiển nhiên của tất cả các phong trào chống Pháp trước Phan, cho đến người kết thúc phong trào Cần Vương là Phan Đình Phùng (1897). Phải có một nhận thức khác và một kế sách khác cho công cuộc giải phóng - đó là hướng về lợi ích của Dân, tìm đến sức mạnh của Dân (thay cho vua quan và kẻ Sỹ); là yêu cầu Dân chủ, theo mô hình cách mạng tư sản phương Tây thế kỷ XVIII, mà nhờ vào sự tiếp xúc với Tân thư, mới vỡ ra được:
      Nghìn, muôn, ức, triệu người chung góp
      Xây dựng nên cơ nghiệp nước nhà
      Người dân ta, của dân ta
      Dân là dân nước, nước là nước dân
      Dân
là một tập hợp rộng rãi, gồm đủ các loại người: Gái trai, già trẻ, miền ngược miền xuôi, phú hào - thứ dân, và thật là mới mẻ, gồm cả người công giáo (Nào ai có vị gì Tây/ Mà coi người đạo ra ngay người thù), và đương nhiên có sự hiện diện của người trí thức (Đứng đầu lên có bạn nhà Nho). Với Phan Bội Châu, số phận người dân đã được đưa lên hàng đầu, chứ không còn là số phận của một vương triều, hoặc một ông vua. Sự thay đổi nhận thức này phải đến thế hệ Phan mới có.

      Khi đã gắn được dân với nước, đã nhìn đất nước qua tình cảnh của dân, thì sự xót xa, niềm đau khổ, mối hận thù sẽ càng tăng gấp bội. Đó là lý do để ta hiểu nồng độ thống thiết của lòng yêu nước, trong bối cảnh mới, đã làm nên kích thước mới - như được thể hiện tập trung trong thơ văn Phan; làm nên sự sôi sục trong bầu không khí dân tộc ở đầu thế kỷ XX. Trở lại với khởi đầu là dân, và đích đến cũng là dân, với người phát ngôn là Phan và các chiến hữu của ông - đó sẽ là nguồn mạch xuyên suốt thế kỷ XX, đưa tới đỉnh cao Cách mạng tháng Tám, xác lập nền Dân chủ cộng hòa ở thời điểm 1945; rồi vẫn còn được tiếp tục khẳng định lại, với khẩu hiệu “Lấy Dân làm gốc” ở thời điểm khởi động công cuộc Đổi mới, năm 1986.
      Sự thống thiết của tình yêu nước còn cần được soi sáng bởi một vài phương diện khác, do hành trình hoạt động của Phan, là gồm 20 năm xa xứ và 15 năm bị giam lỏng ở chính quê nhà. Là người yêu nước mà phải xa nước; là người gắn bó với đất quê mà phải xa quê, Phan như một cái cây bị bứng ra khỏi đất trồng; và tình cảnh đó lâu lâu lại thấy xuất hiện ở Phan trong những câu thơ bùi ngùi: “Đã khách không nhà trong bốn biển/Là người tù tội giữa năm châu”... Trong bầu khí quyển xứ Nghệ, Phan là người từng nuôi chí cứu nước từ rất sớm, kể từ khi là cậu bé chơi trò bình Tây, và ở tuổi 17 viết Bình Tây thu Bắc; nhưng việc xác định con đường và cách thức cứu nước thì dường như chỉ có thể hình thành từ sau 1900, khi Phan vẫn phải trải qua để rồi kết thúc con đường văn chương cử nghiệp với cái bằng Giải nguyên khá muộn, ở tuổi ngoài 30; Cơ hội cứu nước chỉ mở ra ở thời điểm 1905, sau chiến thắng của Nhật Bản đối với nước Nga - Sa hoàng. Ý niệm đồng văn, đồng chủng đã đến với Phan cùng với chủ trương bạo động và cầu viện đã thúc đẩy Phan tìm đường Đông du (1905) sau khi hình thành ý tưởng Duy tân (1904). Đã đặt lên vai Phan sứ mệnh người mở đường, thật là hăm hở trong Xuất dương lưu biệt:
      Non sông đã chết, sống thêm nhục
      Hiền thánh còn đâu, học cũng hoài
      Muốn vượt bể Đông theo cánh gió
      Muôn  trùng sóng bạc tiễn ra khơi
      (Bản dịch của Tôn Quang Phiệt)
      Và với hành trình tìm đường kéo dài đến 20 năm, Phan thuộc số ít người phải vượt biên giới từ rất sớm, để truyền lửa về nước, trong những khoảng cách không gian khá lớn, lúc ở Nhật, lúc ở Tàu, lúc ở Xiêm. Nơi đâu Phan cũng khắc khoải, xót xa về tình cảnh của dânnước mà ông không được cùng sẻ chia, cùng chịu đựng. Do vậy mà thư gửi về cho đồng bào từ hải ngoại của Phan là phải viết bằng máu, là huyết thư - Hải ngoại huyết thư. Sách viết về tình cảnh mất nước của người (xứ Lưu cầu - tức đảo Riou Kiou, nay thuộc Nhật Bản) cũng là viết bằng nước mắt và máu - Lưu cầu huyết lệ tân thư. Lời chữ, âm giọng trong văn thơ Phan bao giờ cũng như dầu sôi, lửa cháy:
      Anh em ơi xin tuốt gươm ra
      Của nhà ta trả chủ ta.
      (...)
      Vạch trời xanh mà tuốt gươm ra
      Cũng xương, cũng thịt, cũng da
      Cũng hòn máu đỏ con nhà Lạc Long
      (...)
      Hai mươi triệu dân cùng của hết
      Bốn mươi năm nước mất quyền không.
      Thương ôi công nghiệp tổ tông
      Nước tanh máu đỏ non chồng thịt cao
      Non nước ấy biết bao máu mủ,
      Nỡ nào đem nuôi lũ sài lang...
      Một kẻ thù mới với những dã tâm và trang bị khác trước; Một tình huống bi thảm sau ngót nửa thế kỷ liên tục nổi dậy đều thất bại; Một cách nhìn gắn nối nước với dân, và dân với nước; Và tình cảnh một người hết xa nước lại xa quê trong ngót 40 năm... Đó là những nguyên cớ làm nên một kích thước mới, một nồng độ mới của lòng yêu nước mà Phan Bội Châu là đại diện tiêu biểu trong lịch sử và văn chương Việt Nam đầu thế kỷ XX.

Gs  Phong Lê

Góp ý dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013

    Nổi bật
        Mới nhất
        140 năm ngày sinh Phan Bội Châu (1867-2007): Nhà yêu nước lớn Phan Bội Châu
        • Mặc định
        POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO