Hoàn thiện thể chế để thực thi hiệu quả CPTPP

Vẫn còn nợ nhiều văn bản

- Thứ Năm, 20/02/2020, 08:43 - Chia sẻ
Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), có hiệu lực từ 14.1.2019, được kỳ vọng tạo xung lực mới cho Việt Nam phát triển. Tuy vậy, bà Nguyễn Thị Thu Trang, Giám đốc Trung tâm WTO và hội nhập cho biết nhiều quy định, cam kết về thể chế được triển khai quá muộn. “Có nhiều văn bản đang chậm mà đó là những văn bản làm vì cam kết chứ chưa phải làm vì chúng ta”, bà Trang nhận xét.

 “CPTPP là cớ để cải cách”

Sau hơn 1 năm, “CPTPP ít nhiều đã có đóng góp tích cực vào hoạt động thương mại của Việt Nam”. Đây là đánh giá của các chuyên gia tại Hội thảo “Thực hiện hiệu quả CPTPP trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế: Yêu cầu hoàn thiện thể chế và nâng cao năng lực cạnh tranh cho doanh nghiệp Việt Nam”, do Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ương (CIEM) tổ chức sáng 19.2.


Toàn cảnh hội thảo
Ảnh: Đan Thanh

Cụ thể, với khối các nước CPTPP, tỷ trọng xuất khẩu của Việt Nam chiếm gần 30,2% giai đoạn 2007 - 2008, giảm dần xuống 23% giai đoạn 2009 - 2010 và còn gần 18% giai đoạn 2011 - 2018. Tuy nhiên, trong năm 2019, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang 6 nước thành viên đã phê chuẩn CPTPP đạt 34,4 tỷ USD, tăng 8,3%, trong khi kim ngạch nhập khẩu đạt 30,1 tỷ USD, chỉ tăng 1%. Hoạt động thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) tiếp tục phát triển vững chắc. Giai đoạn 2010 - 2019, thu hút FDI tăng bình quân 12,4%/năm về số dự án và 5,1% về số vốn đăng ký. Riêng trong năm 2019, quy mô vốn FDI đạt kỷ lục với 20,4 tỷ USD, chứng tỏ niềm tin của các nhà đầu tư ngày càng được củng cố trong bối cảnh kinh tế vĩ mô ổn định, môi trường đầu tư kinh doanh không ngừng được cải thiện. “Chính CPTPP có ý nghĩa đặc biệt trong việc thúc đẩy cải cách môi trường đầu tư - kinh doanh ở Việt Nam”, báo cáo của CIEM nêu bật, đồng thời cho rằng “hiệu quả thực thi và khả năng tận dụng những lợi ích tiềm năng của CPTPP còn phụ thuộc vào năng lực thể chế”.

Thực tế, công tác xây dựng khung khổ pháp lý nhằm thực hiện hiệu quả CPTPP “cho thấy sự thống nhất cao trong nhận thức và hành động. Số lượng các văn bản phải sửa đổi, bổ sung không nhiều do đã qua quá trình dài hoàn thiện pháp luật. Việc sửa đổi, bổ sung năm 2019 không chỉ đáp ứng nghĩa vụ thực hiện các cam kết quốc tế mà còn vì nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam”, nhóm chuyên gia của CIEM bình luận.

Chia sẻ góc nhìn này, Giám đốc Trung tâm WTO và hội nhập (Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam) Nguyễn Thị Thu Trang cho rằng, CPTPP có 4 tác động tới hoàn thiện thể chế đối với Việt Nam. Thứ nhất, CPTPP là tiêu chuẩn, định hướng cho nhiều cải cách thể chế ở Việt Nam. Thứ hai, CPTPP tạo sức ép để Việt Nam cải cách như đối với doanh nghiệp nhà nước, môi trường, lao động. “Có nhiều nội dung trong CPTPP rất gần với các nghị quyết của chúng ta. Điều này có nghĩa chúng ta đã làm rồi, nhưng nếu không có CPTPP thì có thể phải mất 5 - 10 năm, thậm chí lâu hơn. CPTPP tạo sức ép cho chúng ta về thời gian cũng như cách thực hiện”. Thứ ba, CPTPP tạo điều kiện để chúng ta thực hiện yêu cầu cải cách thể chế, khi có những hỗ trợ kỹ thuật từ các đối tác. Cuối cùng, CPTPP là động lực để cải cách, xuất phát từ lợi ích kinh tế nó mang lại. “CPTPP với những vấn đề về cải cách có nhiều duyên nợ. Nhìn một cách chính xác thì đó chính là cái cớ để thực hiện cải cách của chúng ta”, bà Trang nói.

Nên thu hút nhà đầu tư trong nước

Mặc dù thừa nhận Việt Nam đã có nỗ lực “đáng ghi nhận nhằm hoàn thiện khung khổ pháp lý/thể chế theo cam kết của các hiệp định thương mại tự do (FTA), song Trưởng ban Nghiên cứu tổng hợp CIEM Nguyễn Anh Dương chỉ rõ “vẫn còn khoảng cách so với thông lệ tốt quốc tế”. “Việt Nam tự hào có nhiều FTA nhưng mức độ hài hòa hóa với các đối tác trong FTA còn kém. Việt Nam tham gia hợp tác pháp lý quốc tế tuy nhiều nhưng hình thức còn tương đối đơn giản như tham gia hội thảo, đối thoại chính sách, trao đổi chuyên gia, trong khi cấp cao hơn như rà soát, cùng đánh giá hệ thống pháp lý thì Việt Nam thấp hơn rất nhiều”, ông Dương nói.

Còn theo bà Nguyễn Thị Thu Trang, CPTPP mới qua hơn 1 năm thực hiện, vẫn còn quá sớm để đánh giá về cải cách thể chế nhưng thực tế cho thấy “vẫn còn nhiều vấn đề”. Bên cạnh đó, nhiều quy định, cam kết về thể chế được triển khai quá muộn, chẳng hạn như chưa ban hành nghị định hướng dẫn CPTPP trong đấu thầu. “Có rất nhiều văn bản đang chậm mà đó là những văn bản làm vì cam kết chứ chưa phải làm vì chúng ta”, bà Trang nhấn mạnh.

Theo các chuyên gia, việc hoàn thiện thể chế để tận dụng cơ hội từ CPTPP là rất cần thiết. Nói cách khác, thực thi hiệu quả CPTPP đòi hỏi phải xử lý một số yêu cầu về thể chế, như hiểu đúng và đầy đủ các nội dung pháp lý trong CPTPP, cải thiện hiệu quả phối hợp giữa các bộ, ngành liên quan cũng như kịp thời rà soát và ban hành các văn bản pháp luật thực thi hiệp định.

“Các yêu cầu thể chế của CPTPP rất gần với Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam - Liên minh châu Âu (EVFTA). Những cơ hội về kinh tế ở CPTPP có thể thấp, nhưng nếu cộng hưởng với cơ hội kinh tế từ EVFTA thì sẽ là câu chuyện khác hẳn”, Giám đốc Trung tâm WTO và hội nhập Nguyễn Thị Thu Trang chỉ rõ. Bà kiến nghị, hoạt động kiểm tra chuyên ngành cần theo phương pháp quản lý rủi ro - điều mà CPTPP yêu cầu. Đối với vấn đề về đầu tư, quan hệ giao dịch thương mại giữa doanh nghiệp Việt Nam với doanh nghiệp nước ngoài, cụ thể là giải quyết tranh chấp đầu tư quốc tế cần có cơ chế để hạn chế, phòng ngừa, giải quyết ngay khi tranh chấp xảy ra theo hướng bảo vệ lợi ích tốt nhất của phía Việt Nam. Hay nhìn nhận về việc tận dụng hiệu quả các cam kết, cần xét cả ở thị trường nhập khẩu (thị trường trong nước) chứ không phải chỉ nói về thị trường xuất khẩu.

Thêm nữa, “nói đến thu hút đầu tư trong CPTPP hay các FTA, chúng ta thường nói thu hút FDI. Tại sao không nghĩ đến chính sách thu hút nhà đầu tư trong nước? Nhìn vào xuất khẩu nông sản, chính các doanh nghiệp, nhà đầu tư trong nước mới là đối tượng có vai trò tốt nhất trong thúc đẩy nông sản chất lượng cao, bài bản”. Do vậy, theo bà Trang, cần nhìn cả phía nhà đầu tư trong nước để có chính sách thu hút đầu tư, tận dụng cơ hội từ FTA nói chung và CPTPP nói riêng.

Đan Thanh