Thực hiện các chính sách duy trì tỷ lệ sinh

- Thứ Năm, 14/11/2019, 08:30 - Chia sẻ
Trao đổi về nguyên nhân và giải pháp tháo gỡ “bẫy mức sinh thấp”, TS. NGÔ QUỲNH AN, Bộ môn Dân số và Phát triển, Khoa Kinh tế và Quản lý nguồn nhân lực, Đại học Kinh tế Quốc dân cho rằng, khuyến khích sinh sản phải là một phần của giải pháp cho các vùng có mức sinh rất thấp. Đối với những quốc gia có mức sinh hiện tại chỉ ở mức thấp vừa phải, việc thực hiện các chính sách để duy trì tỷ lệ sinh quanh mức hiện tại là cần thiết.

- Có ý kiến cho rằng, để có thể đạt được mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội bền vững đến năm 2030, già hóa dân số nhanh và mức sinh thấp là một trong những bối cảnh cần được xem xét. Quan điểm của bà về vấn đề này như thế nào?

- Mức sinh được gọi là thấp khi có tổng tỷ suất sinh <1,3 (con/1 phụ nữ). Với mức này, chưa quốc gia nào có thể tăng mức sinh trở lại, mà xu hướng ngày càng giảm sâu. Trong đó “vùng an toàn” là trên 1,5 lần sinh trên mỗi phụ nữ, tức là vẫn có thể duy trì ở mức này mà không bị giảm xuống sâu. Kinh nghiệm quốc tế cũng kiến nghị rằng, Chính phủ cần phải có giải pháp can thiệp khi mức sinh bắt đầu giảm xuống dưới mức sinh thay thế ở mức 1,7 - 2,1 con/1 phụ nữ.

Theo đó, hậu quả của một mức sinh thấp, trước hết là dẫn tới già hóa dân số và thiếu hụt lực lượng lao động trong tương lai. Ngoài ra, mức sinh thấp trong điều kiện kém hiểu biết và không có kỹ năng tránh thai của giới trẻ, hạn chế tiếp cận dịch vụ tránh thai thường dẫn tới tình trạng gia tăng phá thai, ảnh hưởng không tốt tới sức khỏe sinh sản. Bên cạnh đó, mức sinh thấp còn có thể khiến cho tình trạng lựa chọn giới tính khi sinh trầm trọng hơn nếu nó đã tồn tại ở một quần thể dân số. Nếu mức sinh tiếp tục giảm, tất cả các hậu quả trên sẽ còn kịch tính hơn so với hiện tại.

Ngoài ra, bài học của Hàn Quốc để cho mức sinh giảm sâu tới 0,98 con/1 phụ nữ tính tới thời điểm 8.2019, các chính sách khuyến khích sinh đưa ra đều không hiệu quả. Điều này khiến dân số Hàn Quốc giảm từ năm 2018 và sẽ tiếp tục giảm nữa khi thế hệ trẻ không muốn kết hôn và sinh con. Khi dân số giảm sẽ dẫn tới giảm quy mô tiêu dùng, tiết kiệm và đầu tư trong dài hạn. Điều này chính là rào cản cho mục tiêu duy trì tăng trưởng kinh tế bền vững trong tương lai. 

- Là rào cản cho mục tiêu duy trì tăng trưởng kinh tế bền vững trong tương lai, nhưng đâu là nguyên nhân dẫn đến việc mức sinh giảm, thưa bà?

- Thực tế, cho đến nay chưa có lý thuyết nào tốt nhất trong các ngành khoa học xã hội cho biết khả năng sinh sản ở các quốc gia có mức sinh thấp có khả năng phục hồi trong tương lai hay sẽ tiếp tục giảm. Với giả thuyết về “Bẫy mức sinh thấp”, có thể dự báo nếu để mức sinh giảm xuống mức dưới 1,3 con/1 phụ nữ thì mức sinh còn tiếp tục giảm nữa.

Trong đó có 3 thành phần khiến mức sinh giảm gồm thứ nhất là thành phần nhân khẩu học (LFT1) là đoàn hệ bị thu hẹp do mức sinh ở thế hệ trước đã giảm, thì ở thế hệ tiếp theo, nếu không có tác động gì sẽ giảm hơn nữa (Kohler, H.P 2002). Thứ hai là thành phần xã hội học (LFT2) dựa trên giả định rằng quy mô gia đình lý tưởng cho đoàn hệ trẻ đang giảm như là một hệ quả của mức sinh thực tế thấp mà họ quan sát thấy trong đoàn hệ cha mẹ.

Thứ ba là thành phần kinh tế (LFT3) dựa vào giả thuyết thu nhập tương đối của (Easterlin,1987), cụ thể là khả năng sinh sản là kết quả từ sự kết hợp thu nhập mong muốn và thu nhập dự kiến. Giả định rằng nguyện vọng về thu nhập của thanh niên đang ngày càng tăng trong khi thu nhập dự kiến của nhóm dân số trẻ này lại giảm, một phần là do hậu quả của dân số lão hóa gây ra bởi mức sinh thấp.

- Vậy theo bà, đâu là giải pháp để tháo gỡ và thoát khỏi bẫy mức sinh thấp?

- Để tránh vòng xoáy đi xuống của số trẻ em được sinh ra trong tương lai, các chính phủ cần hành động ngay lập tức để thoát khỏi bẫy mức sinh thấp. Theo đó, việc các dòng nhập cư sau một thời gian khiến cho thị trường lao động trở nên cạnh tranh nhiều hơn, xung đột xã hội nhiều hơn, khiến nhiều thanh niên tiếp tục trì hoãn kết hôn và việc sinh con lâu dài hơn và mức sinh lại giảm. Cùng đó, việc hoãn sinh con đầu lòng và giãn khoảng cách giữa các lần sinh là xu hướng do các chính sách khuyến khích giảm mức sinh trước đây tạo ra, có thể do kết quả của sự phát triển khi phụ nữ ngày càng bình đẳng hơn, tham gia học tập lâu dài hơn và tham gia thị trường lao động nhiều hơn.

Các yếu tố này sẽ không có lý do để đảo ngược, thậm chí có thể còn phổ biến hơn cùng với quá trình phát triển xã hội, thế hệ trẻ dần độc lập hơn, sẽ không sinh con sớm cho đến khi điều kiện kinh tế, việc làm và thu nhập của họ ổn định, đặc biệt là phụ nữ. Do đó, hỗ trợ thanh niên trẻ sớm ổn định cuộc sống và trao quyền nhiều hơn cho họ có thể được coi là một chính sách thân thiện với mức sinh hiện nay. Chính phủ phải đi đầu trong việc cung cấp cảm giác an toàn này. Tuy nhiên, cũng cần có sự tham gia của các tổ chức sử dụng lao động, cung ứng dịch vụ.

Ngoài ra, để tăng tỷ lệ mức sinh có thể tăng nhận thức về nguy cơ của sự chậm trễ, hoặc các nguy cơ khác như gia đình không bền vững, nguy cơ ly hôn và làm cha mẹ đơn thân cao, nỗi sợ liên quan đến việc có con. Thậm chí có cả những chính sách khá trực tiếp như Chính phủ Nhật Bản đã chi hàng triệu USD để hỗ trợ người dân hẹn hò, tìm bạn đời và kết hôn, trong khi Singapore cấm thiết kế căn hộ cho người độc thân nhằm góp phần tăng tỷ lệ sinh.

Sự khác biệt giữa các quốc gia phát triển có mức sinh rất thấp và những quốc gia có mức sinh thấp vừa phải là do các yếu tố thể chế hơn là những yếu tố cá nhân hay hộ gia đình. Vì vậy, thúc đẩy bình đẳng giới thực sự trong gia đình và xã hội, tạo việc làm linh hoạt cho phụ nữ… khiến chi phí cơ hội khi sinh con của họ giảm xuống là những giải pháp nhằm thay đổi rào cản khiến các chính sách hỗ trợ sinh sản của Nhà nước có thể tác động tới hành vi sinh sản ở các hộ gia đình. Hay nói các khác, khuyến khích sinh sản phải là một phần của giải pháp cho các vùng có mức sinh rất thấp. Đối với những quốc gia có mức sinh hiện tại chỉ ở mức thấp vừa phải, việc thực hiện các chính sách để duy trì tỷ lệ sinh quanh mức hiện tại là cần thiết.

- Xin cảm ơn bà!

Vân Phi thực hiện