Vị trí địa lý và cấu trúc địa chất của bãi Tư Chính

Thêm căn cứ khẳng định chủ quyền của Việt Nam

- Thứ Bảy, 19/10/2019, 07:34 - Chia sẻ
Trao đổi với PV Báo Đại biểu Nhân dân, PGS.TS Nguyễn Chu Hồi, nguyên Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Biển và Hải đảo Việt Nam đã chỉ ra cấu trúc địa chất và vị trí địa lý của Biển Đông nói chung và bãi Tư Chính nói riêng, qua đó đưa ra thêm căn cứ khẳng định bãi Tư Chính hoàn toàn thuộc thềm lục địa của Việt Nam.

Cấu trúc lợi ích của Biển Đông

- Là người nghiên cứu sâu về địa chất Biển Đông, ông từng khẳng định vùng biển này chứa cả một kho báu?

- Biển Đông có hai yếu tố cấu trúc quan trọng, chiếm ưu thế là thềm lục địa và cấu trúc nước sâu. Về góc độ này, Việt Nam là quốc gia có thềm lục địa tự nhiên nhiều nhất.

Ngoài thềm lục địa, Biển Đông còn được đặc trưng bởi sự có mặt của một cấu trúc nước sâu “kiểu đại dương” (chiếm hơn 50% diện tích đáy Biển Đông) hình thành từ khoảng 240 triệu năm về trước khi tách giãn hình thành nên khu vực biển này. Trong tổng số 7 quần đảo lớn liên quan đến rạn san hô ở Biển Đông thì có 5 quần đảo nằm trong cấu trúc nước sâu này. Chúng được cấu thành bởi 100% là các ốc đảo san hô và được hình thành, kế thừa trên nền núi lửa cổ của vỏ đại dương. 5 quần đảo trong cấu trúc nước sâu nói trên có 2 quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam. Với Biển Đông, có san hô thì có cá, có cá thì có nghề cá, có nghề cá thì có ngư dân. Cho nên 5 quần đảo này quyết định rất lớn đến nghề cá của tất cả các nước trong khu vực biển này. Bên cạnh đó, 5 quần đảo này lại cũng có vị trí địa chiến lược hết sức quan trọng, nhất là Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam.

Còn trên bề mặt biển, 90% hệ thống dòng chảy trong Biển Đông là dòng chảy gió, biến đổi theo mùa. Mùa hè thì phân kỳ, mùa đông thì hội tụ. Và chính đặc điểm phân kỳ, hội tụ này cho thấy, bất kỳ tác động gì xảy ra ở vị trí nào của Biển Đông, nhất là giữa khu vực biển thuộc cấu trúc nước sâu, đều ảnh hưởng đến phần còn lại của Biển Đông.

Ngoài tiềm năng lớn về dầu khí ở thềm lục địa, thì chính cấu trúc nước sâu có “hình lưỡi bò” dưới đáy Biển Đông là nơi hình thành và sở hữu tất cả tài nguyên phi sinh vật và sinh vật, trong đó có các loài ưu sống môi trường sinh thái đại dương (cá ngừ đại dương). Có thể nói, chính cấu trúc nước sâu này là một kho báu của Biển Đông.

Những đặc trưng cơ bản nói trên khiến từ lâu Biển Đông đã trở thành mối quan tâm của nhiều nước, trong đó có các nước lớn. Trung Quốc là một nước lớn đã đơn phương vẽ và công bố quốc tế “đường lưỡi bò” đứt đoạn phi pháp ôm trọn toàn bộ kho báu giàu có nhất dưới đáy Biển Đông. Chạy dọc theo trục Đông Bắc - Tây Nam là một hệ thống rãnh sâu và khi đến ngang Đà Nẵng thì ngoặt song song với bờ biển miền Trung Việt Nam và là lằn ranh tách cấu trúc thềm lục địa và quần đảo Trường Sa. Bất chấp phán quyết của Tòa Trọng tài Thường trực ở The Hague, Hà Lan năm 2016 đã bác bỏ yêu sách phi lý này, nhưng Trung Quốc vẫn tiếp tục có những hành động đơn phương tôn tạo các bãi cạn ở quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa của Việt Nam thành đảo nhân tạo và “quân sự hóa” Biển Đông.

Tư Chính - Trường Sa: Sự khác biệt về mặt địa chất, địa lý

- Để biện minh cho những hoạt động phi pháp của nhóm tàu Địa chất Hải Dương 08 vào sâu trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa 200 hải lý của Việt Nam, Trung Quốc khẳng định một cách hoàn toàn phi lý và sai trái rằng: “Hoạt động của nhóm tàu Địa chất Hải Dương 08 là hoàn toàn hợp pháp; bởi vì Bãi cạn Tư Chính là bộ phận cấu thành của quần đảo Trường Sa (mà Trung Quốc gọi là Nam Sa quần đảo)”. Nhìn từ góc độ địa chất và địa lý, ông nhận định như thế nào về tuyên bố này? 

- Ngày 3.10, Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Lê Thị Thu Hằng đã bác bỏ tuyên bố phi lý trên, đồng thời khẳng định “Bãi Tư Chính hoàn toàn nằm trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam, được xác định phù hợp với Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển 1982 (UNCLOS). Đây hoàn toàn không phải là khu vực tranh chấp hay có chồng lấn, vì thế Trung Quốc không có bất kỳ cơ sở pháp lý quốc tế nào để đưa ra yêu sách đối với khu vực này”. Tôi hoàn toàn nhất trí với tuyên bố của bà Lê Thị Thu Hằng, đồng thời xin được bổ sung những căn cứ để củng cố lập trường của Việt Nam.

Về mặt pháp lý, Bãi Tư Chính của Việt Nam được các chuyên gia luật quốc tế khẳng định hoàn toàn không nằm trong khu vực chồng lấn chủ quyền. Cho nên, bãi Tư Chính chưa hề và chưa bao giờ là khu vực tranh chấp chủ quyền. Bãi Tư Chính ở trên thềm lục địa Việt Nam và thuộc vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý được xác định phù hợp với UNCLOS 1982. Đồng thời, khu vực biển này đã được Việt Nam sử dụng và khai thác đặc quyền kinh tế một cách ổn định và từ lâu, chứ không phải bây giờ mới có, mới xuất hiện tuyên bố chủ quyền, càng không phải khu vực đang có tranh chấp trên biển.

Về mặt địa chất, Bãi Tư Chính cùng các bãi ngầm và đá ngầm ở khu vực này là một phần không thể tách rời của thềm lục địa Đông Nam Việt Nam, được ngăn cách với quần đảo Trường Sa của Việt Nam bằng một rãnh sâu, nên theo UNCLOS 1982 hoàn toàn không thuộc quần đảo Trường Sa. Như trên đã nói, trong cấu trúc nước sâu của Biển Đông có một rãnh sâu lớn nhất ngăn cách thềm lục địa miền Trung và Đông Nam Việt Nam, nơi có bãi Tư Chính - Vũng Mây, với quần đảo Trường Sa. Các bãi cạn khu vực biển bãi Tư Chính phát triển kế thừa trên nền cấu trúc vỏ lục địa kéo dài từ lục địa Việt Nam ra, trong khi quần đảo san hô Trường Sa, như nói trên, phát triển kế thừa trên nền núi lửa của vỏ đại dương thuộc cấu trúc nước sâu.

Rãnh sâu này (có nơi sâu đến 4.000m) chạy đến gần khu vực bãi cạn Scarborough phía eo Luzon thì được mở rộng, tạo thành đồng bằng biển thẳm, rộng khoảng 2.000km2. Hệ rãnh sâu này cũng chính là trục đường hàng hải quốc tế đi qua Biển Đông, cách Côn Đảo của Việt Nam khoảng 36km.

Về mặt địa lý, trong số các tài liệu chính thống của Tổ chức Thủy đạc quốc tế (IHO) thuộc Liên Hợp Quốc cũng như các tài liệu địa lý quốc tế, tất cả tài liệu chính thống này đều không có tài liệu hay công bố nào nói rằng khu vực Tư Chính - Vũng Mây thuộc quần đảo Trường Sa. Nếu nói Tư Chính thuộc quần đảo Trường Sa thì chứng tỏ là cố tình hiểu sai về mặt địa lý, địa chất và đặc trưng đáy Biển Đông một cách có chủ đích. Một bản đồ chụp nổi đáy Biển Đông của Vương quốc Anh năm 2001 cũng cho thấy rất rõ những đặc trưng nói trên.

Chúng ta đã làm hồ sơ và trình Tiểu ban Ranh giới thềm lục địa của Ủy ban Thềm lục địa LHQ để xem xét khả năng mở rộng thềm lục địa ở hai khu vực ngoài 200 hải lý, trong đó có một vùng nằm ngoài thềm lục địa Đông Nam Việt Nam, liên quan đến Malaysia. Như vậy thềm lục địa Đông Nam Việt Nam không chỉ bao gồm nhóm bãi Tư Chính mà còn được mở rộng ra ngoài 200 hải lý.

Như vậy có thể một lần nữa khẳng định, việc Trung Quốc ngụy biện khu vực biển bãi Tư Chính là một bộ phận cấu thành của “quần đảo Nam Sa” (quần đảo Trường Sa của Việt Nam) là hoàn toàn sai trái. Bởi đó là những bãi ngầm, bãi cạn ở xa và bị ngăn cách quần đảo này bởi các rãnh sâu; không thể tạo thành một thể thống nhất về địa lý, địa chất và, đặc biệt, không thể gắn kết về kinh tế, lịch sử để tạo thành một thể thống nhất của quần đảo.

- Bên cạnh căn cứ pháp lý thì căn cứ địa chất và địa lý này có tầm quan trọng như thế nào, thưa ông?

- Các căn cứ địa chất và địa lý là cơ sở khoa học tự nhiên để nhận diện các cấu trúc và hệ thống tự nhiên trong một vùng biển. Đó cũng là cơ sở khoa học để xác định đúng đắn ranh giới tự nhiên của các đơn vị cấu trúc địa chất, địa lý làm minh chứng tham chiếu với các nguyên tắc và quy định pháp lý trong luật pháp quốc tế, trong đó có UNCLOS.

Khi các các căn cứ địa chất và địa lý phù hợp với các nguyên tắc và quy định của luật pháp quốc tế thì chúng có giá trị pháp lý, và đương nhiên sẽ góp phần quan trọng vào việc khẳng định các quyền và lợi ích của quốc gia ven biển. Khi đó, chúng trở thành các yếu tố (thông tin cần thiết) không thể thiếu trong quá trình đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển, đảo của đất nước. Đặc biệt, chúng sẽ là một trong những nội dung cần thể hiện trong các bộ hồ sơ pháp lý đối với các vụ kiện quốc tế, nếu cần. Do ý nghĩa to lớn như vậy, nên gần đây, khoa học tự nhiên biển, bao gồm địa chất, địa lý biển đã trở thành một cách tiếp cận (giải pháp) mới, mang tính hòa bình trong giải quyết căng thẳng trên biển. Đó chính là cách tiếp cận “Ngoại giao khoa học đại dương” (ocean science diplomacy) - một hình thức ngoại giao “phi truyền thống” để tạo dựng lòng tin giữa các bên khi giải quyết căng thẳng, quản lý rủi ro trên biển.

Quốc tế ủng hộ tính chính nghĩa của Việt Nam

- Ông có nhận xét gì về phản ứng của cộng đồng quốc tế về sự việc lần này?

- Qua quan sát phản ứng của cộng đồng quốc tế về sự việc Trung Quốc đưa tàu khảo sát địa chất Hải Dương 08 và nhóm tàu hộ tống của Trung Quốc hoạt động trái phép tại vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam, tôi nhận thấy cộng đồng quốc tế rất ủng hộ tiếng nói chính nghĩa của Việt Nam và thái độ của Việt Nam trong nỗ lực kiên trì theo đuổi giải quyết tranh chấp bằng biện pháp hòa bình, tuân thủ luật pháp quốc tế.

Từ các diễn đàn quốc tế của LHQ, ASEAN hay EU, đến chính giới một số nước như Mỹ, Nhật Bản, Australia, Ấn Độ, và cả các học giả quốc tế đã lên tiếng quan ngại và phản đối mạnh mẽ các tham vọng yêu sách chủ quyền phi lý của Bắc Kinh. Mỹ và đồng minh tuyên bố sẵn sàng làm mọi cách để bảo đảm duy trì tự do hàng hải và hàng không ở Biển Đông - tuyến hàng hải quốc tế quan trọng bậc nhất thế giới. Một điểm tích cực tôi nhận thấy ở phản ứng của dư luận lần này là phản ứng của cộng đồng quốc tế quyết liệt hơn và tập trung hơn. Tất cả đều bày tỏ sự quan ngại sâu sắc và phản đối những hành động phi lý và hành vi vi phạm, không tôn trọng UNCLOS của Trung Quốc ở Biển Đông. Theo tôi, đây là một điểm lợi mà chúng ta cần tiếp tục tranh thủ.

- Chúng ta cần làm gì để bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền trên Biển Đông?

- Có nhiều giải pháp khác nhau, bao gồm các giải pháp mang tính chiến thuật và chiến lược. Tuy nhiên, phải phối hợp đồng bộ các giải pháp và chọn đúng thời điểm để dùng giải pháp “quyết định”, phù hợp bối cảnh, bảo đảm lợi ích toàn cục, có tầm chiến lược và chắc thắng. Cũng cần nhấn mạnh rằng, chọn giải pháp nào còn tùy thuộc vào thái độ và hành vi của phía Bắc Kinh trên thực địa.

Ta với Trung Quốc là các nước láng giềng của nhau, nhân dân hai nước có truyền thống hữu nghị lâu đời, cho nên, cần giải pháp chính trị mang tính dài hạn, bảo đảm lợi ích toàn cục của quốc gia, dân tộc. Việt Nam ngày càng có uy tín trên trường quốc tế, cho nên cần tăng cường và phát huy vị thế địa chính trị của mình.

Chú ý giữ thanh danh của đất nước, bảo đảm tính chính nghĩa trong cuộc đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển đảo và tôn trọng luật pháp quốc tế là nguyên tắc nước nhỏ nên làm, là cách để nhận được sự ủng hộ quốc tế.

Đồng thời, chúng ta phải tăng cường, mở rộng và tranh thủ hợp tác quốc tế để nâng cao năng lực bảo vệ biển, nhất là với các nước có trình độ quản lý biển tốt, tiên tiến; với các nước có “cùng cảnh ngộ” để từng bước tạo thành một “mặt trận” bảo vệ nền hòa bình ở Biển Đông.

Bên cạnh các giải pháp ngoại giao mà chúng ta đang áp dụng như thông qua các tuyên bố cấp cao, tuyên bố của người phát ngôn, trao công hàm phản đối cho phía Trung Quốc, thông báo bảo lưu tại Liên Hợp Quốc; thông báo công khai ở các diễn đàn quốc tế, khu vực và ASEAN; Việt Nam cần tạo điều kiện cho báo chí nước ngoài tiếp cận hiện trường vụ việc để thấy rõ vi phạm của Trung Quốc, để tranh thủ sự ủng hộ của dư luận quốc tế.

Ở trong nước, cần tăng cường và thường xuyên tuyên truyền để người dân hiểu đúng về các quyền và lợi ích của Việt Nam trên Biển Đông. Đồng thời, tăng các lực lượng thực thi pháp luật trên biển tích cực, chủ động ngăn chặn, đẩy đuổi quyết liệt các hành động vi phạm và cần tỉnh táo, linh hoạt, kiên trì, kiên định và không mắc mưu “sử dụng vũ lực trước”.

- Chân thành cảm ơn ông!

Quốc Đạt thực hiện