Phiên họp thứ Bốn mươi hai của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội

Nội luật hóa Công ước Istanbul

- Thứ Năm, 13/02/2020, 10:14 - Chia sẻ
Cho ý kiến về ban hành Nghị định hướng dẫn việc thực hiện cơ chế tạm quản theo Công ước Istanbul, các Ủy viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội tán thành với sự cần thiết ban hành Nghị định của Chính phủ nhằm nội luật hóa Công ước và nêu rõ, những vấn đề Chính phủ nêu trong Tờ trình về việc phê duyệt dự thảo Nghị định được quy định rất rõ tại các điều khoản trong Luật Điều ước quốc tế 2016 cũng như Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2015.

Trình bày Báo cáo thẩm tra dự thảo Nghị định, Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính - Ngân sách Nguyễn Đức Hải cho biết, tại phiên họp thứ 14 (tháng 9.2017), Chỉnh phủ đã trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho ý kiến để Chính phủ ký kết Công ước Istanbul. Ngày 26.9.2017, Tổng thư ký Quốc hội đã có Thông báo số 1134/TB-TTKQH thông báo kết luận của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về nội dung liên quan đến các Văn kiện hợp tác quốc tế tại phiên họp thứ 14, trong đó nhất trí với đề nghị của Chính phủ về việc gia nhập Công ước Istanbul về tạm quản hàng hóa; đồng thời, giao Chính phủ thực hiện việc nội luật hóa các quy định của Công ước thành các quy định cụ thể của pháp luật Việt Nam… Do đó, Ủy ban Tài chính - Ngân sách nhất trí với sự cần thiết ban hành Nghị định của Chính phủ nhằm hướng dẫn việc thực hiện cơ chế tạm quản theo Công ước Istanbul.

Về khoản thu phí cấp sổ tạm quản (ATA), theo Báo cáo thẩm tra của Ủy ban Tài chính - Ngân sách, đa số ý kiến nhất trí với quy định thu phí cấp sổ ATA trong dự thảo Nghị định bởi lẽ: Tại điển d, Điều 1 Công ước và điểm a, Điều 1 Phụ lục A quy định “Chứng từ tạm quản là chứng từ hải quan quốc tế được chấp nhận như một loại tờ khai hải quan cho phép nhận diện hàng hoá (bao gồm cả phương tiện vận tải) và dùng để bảo đảm thanh toán quốc tế các khoản thuế nhập khẩu và thuế khác”. Theo đó, khi triển khai thực hiện cơ chế tạm quản hàng hóa, cơ quan hải quan căn cứ ATA để thực hiện thủ tục hải quan và thông quan hàng hóa. Như vậy, theo các nội dung trên, sổ ATA là tờ khai hải quan, là chứng từ để người khai hải quan và cơ quan hải quan thực hiện thủ tục hải quan và thông quan hàng hóa cũng như để phục vụ các công việc liên quan khác như kiểm tra sau thông quan… Bên cạnh đó, tại điểm 3, mục XI Phụ lục số 1 Danh mục phí, lệ phí ban hành kèm theo Luật Phí và lệ phí số 97/2015/QH13 quy định phí hải quan là phí thuộc lĩnh vực tài chính do Bộ Tài chính quy định. Theo đó, tại điểm c khoản 1, Điều 25 Dự thảo Nghị định đã quy định: “Bộ Tài chính chịu trách nhiệm quy định mức thu, chế độ thu, nộp, kê khai, quản lý và sử dụng phí cấp sổ ATA theo quy định của pháp luật phí và lệ phí”.

Có ý kiến trong Ủy ban Tài chính - Ngân sách chưa tán thành với quy định thu phí cấp sổ ATA trong dự thảo Nghị định này vì Công ước và pháp luật hiện hành của Việt Nam cũng không quy định về thu phí cấp sổ ATA. Hơn nữa, theo dự thảo Nghị định, cơ quan thu phí cấp sổ ATA không phải cơ quan hải quan mà là cơ quan cấp sổ và theo Luật Phí và lệ phí thì chỉ có phí hải quan, trong khi dự thảo Nghị định là phí cấp sổ ATA. Theo danh mục phí, lệ phí kèm theo Luật Phí và lệ phí thì phí cấp sổ ATA không có trong danh mục, do đó đề nghị Chính phủ trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội quyết định bổ sung loại phí này vào danh mục phí, lệ phí và báo cáo Quốc hội tại Kỳ họp gần nhất.

Cho ý kiến về vấn đề này, các Ủy viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho rằng, theo quy định thống nhất thì coi phí cấp sổ ATA là một loại phí hải quan nằm trong danh mục phí và lệ phí ban hành kèm theo Luật Phí và lệ phí, do Chính phủ chỉ đạo hướng dẫn và không phải ban hành theo danh mục gì mới. Về việc phân công cho cơ quan cấp sổ ATA, các Ủy viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội cũng nêu rõ, đây là thuộc thẩm quyền của Chính phủ và Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội không thể cho ý kiến, chỉ đạo vấn đề này.

Kết luận phiên thảo luận, Phó Chủ tịch Quốc hội Phùng Quốc Hiển cho biết, Ủy ban Thường vụ Quốc hội tán thành với sự cần thiết ban hành Nghị định của Chính phủ nhằm nội luật hóa Công ước. Những vấn đề mà Chính phủ nêu trong Tờ trình về việc phê duyệt dự thảo Nghị định được quy định rất rõ tại các điều khoản trong Luật Điều ước quốc tế 2016 cũng như Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2015. Cụ thể, Chính phủ sẽ thực hiện theo khoản 1, Điều 6 Luật Điều ước quốc tế 2016; khoản 5 Điều 156 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật về áp dụng văn bản quy phạm pháp luật để hướng dẫn thực hiện cơ chế tạm quản theo Công ước Istanbul. Ủy ban Thường vụ Quốc hội sẽ có thông báo gửi Chính phủ ban hành Nghị định hướng dẫn.

Tin: Thanh Chi