Nhiều thách thức trong công tác dân số

- Thứ Tư, 05/06/2019, 08:03 - Chia sẻ
Công tác dân số ở nước ta đã khởi đầu từ năm 1961 nhưng chỉ sau Nghị quyết Hội nghị lần thứ Tư, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Khóa VII (NQTW 4) năm 1993 về Chính sách Dân số - Kế hoạch hóa gia đình mới có sự thay đổi về chất và đạt được những thành tựu ấn tượng.

Mức sinh giảm chậm

Nếu trước đây, trung bình mỗi phụ nữ hết tuổi sinh đẻ có khoảng 7 con thì từ năm 2005 đến nay, chỉ còn khoảng 2 con. Mô hình “gia đình 2 con” đã trở nên phổ biến. Mục tiêu mà chính sách dân số - kế hoạch hoá gia đình (DS - KHHGĐ) theo đuổi suốt nửa thế kỷ qua đã đạt được, sớm hơn 10 năm so với thời điểm năm 2015 mà NQTW 4 đề ra. Kết quả giảm sinh của nước ta vượt trội so với trình độ phát triển. Năm 2005, số con trung bình của một bà mẹ ở các nước đang phát triển là 2,8; các nước kém phát triển nhất là 4,3; cao hơn nhiều so với Việt Nam. Từ sinh sản bản năng, tự nhiên, đến nay người Việt Nam đã làm chủ trong lĩnh vực này, tức là “sinh đẻ có kế hoạch”, chủ động và có trách nhiệm, chú trọng chất lượng hơn số lượng. Đây là bước chuyển có tính cách mạng trong lĩnh vực sinh sản. Chính vì vậy, ngay từ năm 1999 Liên Hợp Quốc đã tặng Giải thưởng Dân số cho Việt Nam. Đó là sự ghi nhận của cộng đồng quốc tế về thành công của Chương trình DS - KHHGĐ ở nước ta.


Còn nhiều thách thức đặt ra cho công tác dân số kế hoạch hóa gia đình Nguồn: ITN

Có thể rút ra những bài học kinh nghiệm chủ yếu từ chính sách giảm sinh thành công của Việt Nam. Một là, có Nghị quyết chuyên đề về công tác dân số của Đảng và quan trọng hơn là cụ thể hóa Nghị quyết này thông qua luật pháp, chiến lược, chương trình, dự án về dân số. Hai là, xây dựng bộ máy độc lập, chuyên trách làm công tác DS - KHHGĐ. Đến nay, nước ta đã 8 lần thay đổi mô hình Bộ máy làm công tác DS - KHHGĐ. Giai đoạn (1992 - 2002), Việt Nam xây dựng bộ máy độc lập, chuyên trách làm công tác DS - KHHGĐ, mức sinh giảm  tới 11,8%o. Đây là giai đoạn mức sinh giảm mạnh nhất (các giai đoạn khác, cũng 10 năm, mức sinh giảm tối đa chỉ có 3,8%o). Ba là, bảo đảm đủ kinh phí, quản lý kinh phí theo chương trình mục tiêu quốc gia và tập trung kinh phí cho địa phương. Bốn là, giải pháp cơ bản để thực hiện công tác DS - KHHGĐ ở Việt Nam không phải là hành chính, mệnh lệnh, ép buộc mà là vận động, tuyên truyền và giáo dục. Năm là, cung cấp phương tiện, dịch vụ KHHGĐ đa dạng, đa kênh, đa hình thức (miễn phí, bán rẻ, bán theo giá thị trường) và theo phương châm “Đưa dịch vụ kế hoạch hóa gia đình đến tận người dân”.

Bước sang thế kỷ XXI, ngoài đạt được mức sinh thay thế từ năm 2005, dân số nước ta xuất hiện nhiều đặc điểm mới: Mất cân bằng giới tính khi sinh ở mức nghiêm trọng; hình thành cơ cấu dân số vàng; dân số già hóa nhanh; phân bố dân số ngày càng không đồng đều, dân số có xu hướng tập trung vào thành phố và một số vùng; chất lượng dân số tăng lên nhưng chưa cao. Chính vì vậy, Nghị quyết số 21-NQ/TW ngày 25.10.2017 về “công tác dân số trong tình hình mới” của Hội nghị lần thứ Sáu, Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Khóa XII đã đề ra mục tiêu: “Duy trì vững chắc mức sinh thay thế; đưa tỷ số giới tính khi sinh về mức cân bằng tự nhiên; tận dụng hiệu quả cơ cấu dân số vàng, thích ứng với già hoá dân số; phân bố dân số hợp lý; nâng cao chất lượng dân số, góp phần phát triển đất nước nhanh, bền vững”.

Mục tiêu này được cụ thể  hóa thành 24 chỉ tiêu cần đạt được vào năm 2030. Điều này cho thấy công tác dân số đến năm 2030 và từ đó trở đi, như Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng phát biểu trong lời khai mạc Hội nghị lần thứ Sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng Khóa XII là: “Vấn đề rất lớn và khó, có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, liên quan đến việc bảo vệ phát triển giống nòi quốc gia dân tộc”.

Những thách thức đặt ra

Những quan điểm mới, mục tiêu mới và hệ thống giải pháp của công tác dân số ở nước ta đã được soi sáng trong Nghị quyết 21-NQ/TW của Hội nghị Trung ương Đảng. Tuy nhiên, việc triển khai Nghị quyết này gần hai năm qua cho thấy công tác dân số đang đứng trước những thách thức lớn.

Trước hết, để thực hiện chính sách dân số mới mà trọng tâm là “dân số và phát triển” phải đổi mới tư duy về chính sách dân số. Điều này không đơn giản, nhất là khi tư duy dân số chỉ là giảm sinh, là KHHGĐ, gần 60 năm qua đã “ăn sâu” trong tâm trí người dân và cán bộ quản lý. Vì vậy, giải pháp then chốt, đi trước là đẩy mạnh truyền thông, vận động về dân số và phát triển, về Nghị quyết số 21-NQ/TW. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân, hoạt động này chưa đủ mạnh nên nhiều cán bộ quản lý, thậm chí là trong ngành dân số cũng chưa thật hiểu thấu đáo Nghị quyết quan trọng này.

Thứ hai là chậm cụ thể hóa Nghị quyết số 21-NQ/TW. Ngay sau khi có Nghị quyết này, Chính phủ đã ban hành Chương trình hành động và giao các bộ, ủy ban xây dựng 42 đề án để thực hiện Nghị quyết số 21-NQ/TW. Nhiều đề án được yêu cầu trình trong năm 2018 và 2019 nhưng đến nay chưa Đề án nào đáp ứng được yêu cầu này. Cần lưu ý rằng, trước đây chỉ sau NQTW4 hơn 5 tháng, Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định phê duyệt “Chiến lược Dân số - Kế hoạch hóa gia đình đến năm 2000”.

Thứ ba, về mô hình tổ chức, bộ máy làm công tác dân số, Nghị quyết số 21-NQ/TW yêu cầu phải “phù hợp với trọng tâm công tác dân số trong từng thời kỳ”. Trọng tâm của thời kỳ này là “dân số và phát triển” nhưng tổ chức bộ máy hiện nay chưa thống nhất, đang đi theo hướng tinh gọn, “y tế hóa” có thể không phù hợp với “trọng tâm công tác dân số” hiện nay. Việc các đơn vị dân số từ Trung ương đến cơ sở  trực thuộc cơ quan y tế cùng cấp, với nhân sự ngày càng “mỏng dần”; có thể quản lý các lĩnh vực mang tính chuyên môn nghiệp vụ y tế, như: KHHGĐ, sàng lọc trước sinh và sơ sinh... nhưng khó khăn trong việc điều phối các lĩnh vực “dân số và phát triển” khác, như: Tận dụng cơ cấu dân số vàng; thích ứng với già hóa dân số; di cư và phân bố dân cư hợp lý... Tổ chức bộ máy quản lý dân số thay đổi nhiều nên cán bộ không yên tâm với công việc, một số địa phương không giữ được cán bộ cán bộ có năng lực, có kinh nghiệm trong công tác. 

Thứ tư, về kinh phí cho công tác dân số. Trước đây chỉ thực hiện một mục tiêu, một chỉ tiêu giảm sinh nhưng ngay sau khi Nghị quyết Trung ương 4 được ban hành, đầu tư từ ngân sách trung ương cho công tác dân số năm 1993 so với năm 1992, tăng gần 3 lần, còn năm 2012 tăng gấp 36 lần, đạt 970 tỷ đồng. Hiện nay, giải quyết những vấn đề dân số và phát triển, với mục tiêu cụ thể gồm 24 chỉ tiêu, Nghị quyết số 21-NQ/TW yêu cầu “Nhà nước ưu tiên bố trí ngân sách” và “bảo đảm nguồn lực cho công tác dân số” nhưng ngân sách của Trung ương lại giảm mạnh, thậm chí, năm 2018 chỉ còn 289 tỷ đồng, tức là chỉ bằng gần 30% so với năm 2012. Kinh phí không chỉ giảm mà còn được cấp rất chậm, nguồn tài trợ quốc tế và huy động nguồn lực xã hội cho công tác này gần như không đáng kể. Thiếu kinh phí, ngay các tỉnh miền núi, vốn được ưu tiên bố trí nguồn lực, nhiều hoạt động của công tác dân số phải cắt; phương tiện tránh thai, phương tiện dùng cho các dịch vụ nâng cao chất lượng dân số... luôn thiếu hoặc chậm đã hạn chế kết quả của công tác này.

Với những khó khăn, thách thức trong 2 năm thực hiện Nghị quyết 21-NQ/TW, nếu không có sự thay đổi, việc đạt được những mục tiêu mà nghị quyết này đề ra đến năm 2030 vẫn còn là một câu hỏi lớn. Rõ ràng, “đưa công tác dân số, đặc biệt là nâng cao chất lượng dân số thành một nội dung trọng tâm trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo của cấp uỷ, chính quyền các cấp” như Nghị quyết số 21-NQ/TW yêu cầu là một đòi hỏi cấp bách hiện nay.

GS.TS Nguyễn Đình Cử - Nguyên Viện trưởng Viện Dân số và các vấn đề xã hội, Đại học Kinh tế quốc dân