Lương của Nghị sỹ Đức: Thu nhập

- Thứ Sáu, 30/01/2009, 00:00 - Chia sẻ
Ngày nay, ngoài lương chính, nghị sỹ Quốc hội liên bang Đức còn được trả một số loại phụ cấp khác nhằm giúp nghị sỹ thực hiện tốt trọng trách của mình.

Theo khoản 1 Điều 11 Luật về các quan hệ pháp lý của nghị sỹ Quốc hội liên bang, tiền lương của nghị sỹ Quốc hội liên bang Đức từ ngày 1.7.2000 là 12.953 Mark; Từ 1.1.2001 là 13.200 Mark, từ 1.1.2002 là 6.878 euro và từ 1.1.2003 là 7.009 euro.

      Lương của nghị sỹ
      Khoản 3 Điều 48 Hiến pháp liên bang quy định, nghị sỹ có quyền nhận một khoản tiền công thích hợp để bảo đảm hoạt động độc lập của mình. Khoản tiền công này bằng nhau đối với các nghị sỹ; Phải bảo đảm sự độc lập của nghị sỹ và thể hiện nghị sỹ là người đại diện cho toàn thể dân tộc. Năm 1975, Tòa án Hiến pháp liên bang khẳng định quy định trên mang tính bắt buộc. Năm 1977, khoản tiền lương của nghị sỹ tương ứng với các khoản thu nhập của các chức danh do bầu cử để đảm nhiệm chức vụ theo nhiệm kỳ ở địa phương trong thang lương nhóm B6 (Thị trưởng thành phố với số dân trung bình) cũng như của Thẩm phán Tòa án tối cao liên bang (thang lương nhóm R6). Quốc hội liên bang đã khẳng định trong luật rằng, việc điều chỉnh tiền lương của nghị sỹ trong tương lai sẽ trên cơ sở 2 nhóm lương trên.
      Chủ tịch Quốc hội liên bang nhận được khoản tiền phụ cấp chức vụ hàng tháng bằng mức lương tháng của nghị sỹ Quốc hội liên bang; Phó chủ tịch Quốc hội liên bang nhận được khoản tiền phụ cấp chức vụ bằng nửa mức lương tháng của nghị sỹ Quốc hội liên bang.

05-luong-cua-3009-300-a2.jpg

      Trong khi các loại lương, thu nhập và chi phí bảo đảm cuộc sống thường ngày từ thời điểm đó đã tăng lên rõ nét, thì các thành viên của Quốc hội liên bang từ năm 1977 đến 1999 đã 10 lần từ bỏ việc tăng hàng năm khoản tiền công. Vì vậy, khoản tiền công này đã thụt lại sau sự phát triển chung về thu nhập. Các nghị sỹ không những không có lương tháng thứ 13, mà còn không có cả tiền nghỉ phép hoặc nghỉ Noel cũng như tiền trợ cấp khu vực. Giống như người lao động, các nghị sỹ cũng bị đánh thuế thu nhập khoản tiền công của mình. Người đứng đầu đảng và các nhóm đảng ở Quốc hội mong đợi ở nghị sỹ khoản đóng góp tự nguyện. Chi phí vận động tranh cử thường phải được trang trải toàn bộ hoặc một phần từ cá nhân.
      Theo Luật về các quan hệ pháp lý của nghị sỹ Quốc hội liên bang thì Tổng thống liên bang có nghĩa vụ trong các tháng đầu của mỗi nhiệm kỳ nghị viện phải đệ trình dự thảo Luật về việc sửa đổi hoạt động phí của nghị sỹ cho phù hợp.
      Kinh phí chung 
      Bên cạnh khoản tiền công, các nghị sỹ còn được nhận một khoản kinh phí chung hàng tháng không phải chịu thuế cho việc thực hiện công việc ở đơn vị bầu cử và các chi phí khác cho việc thực hiện chức danh nghị sỹ. Chẳng hạn như nghị sỹ thông thường phải có văn phòng ở đơn vị bầu cử và căn hộ ở khu trụ sở Quốc hội liên bang. Những hoạt động của nghị sỹ nhằm giữ quan hệ với địa phương cũng được thanh toán toàn bộ hoặc một phần. Tổng kinh phí chung này được nâng lên phù hợp với mức giá tăng hàng năm. Nếu như tổng kinh phí chung này không đủ cho các nghị sỹ, thì các khoản chi trội lên không được hoàn trả. Mức thuế đối với các khoản chi trội hơn cũng không được hạ thấp, vì đối với nghị sỹ không có chi phí quảng cáo.

05-luong-cua-3009-300-a3.jpg

      Tiền phụ cấp thuê nhân viên giúp việc
      Mỗi nghị sỹ Quốc hội liên bang được nhận một khoản tiền để thuê nhân viên giúp việc nhằm thực hiện công việc nghị sỹ Quốc hội. Nghị sỹ có quyền quyết định về việc có nhận nhân viên đánh máy hoặc nhân viên văn phòng, thư ký, chuyên gia hoặc cán bộ khoa học trợ giúp mình hay không. Nghị sỹ có toàn quyền trong việc quyết định việc tổ chức và thực hiện như thế nào, ở trụ sở của Quốc hội hay ở đơn vị bầu cử. Nghị sỹ cũng có toàn quyền quyết định khi nào thì hợp đồng lao động với người giúp việc kết thúc. Nhiều nghị sỹ cũng có thể cùng nhau thuê nhân viên giúp việc.
      Quyền thuê nhân viên giúp việc không được phép chuyển từ nghị sỹ Quốc hội này sang nghị sỹ Quốc hội khác. Việc bồi hoàn các chi phí cho các hợp đồng lao động với nhân viên lao động là người thân của nghị sỹ Quốc hội liên bang, kết hôn hoặc kết thông gia với nghị sỹ Quốc hội liên bang về nguyên tắc là không được phép. Điều này cũng áp dụng tương tự đối với việc bồi hoàn các chi phí cho các hợp đồng lao động với bạn đời hoặc trước đây là bạn đời của nghị sỹ Quốc hội liên bang. Các quy định cụ thể về phạm vi và điều kiện để được hoàn trả các chi phí, về các quy định tối thiểu bắt buộc đối với hợp đồng lao động và các vấn đề khác được điều chỉnh trong Luật ngân sách và các quy định do Hội đồng người cao tuổi của Quốc hội liên bang ban hành nhằm thi hành Luật ngân sách. Việc thanh toán các khoản thu nhập và chi phí cho nghị sỹ Quốc hội liên bang do Văn phòng Quốc hội liên bang thực hiện. Quốc hội liên bang không chịu trách nhiệm đối với người thứ ba. Các nhân viên ở đây không phải là công chức. Giữa các nhân viên này và Văn phòng Quốc hội liên bang không có mối quan hệ hợp đồng lao động. Nhưng nhân viên giúp việc cho nghị sỹ nhận tiền công của mình trực tiếp từ Văn phòng của Quốc hội liên bang.

05-luong-cua-3009-300-a4.jpg

      Tiền trợ cấp cho thời gian quá độ
      Về nguyên tắc, người thôi giữ chức nghị sỹ Quốc hội liên bang sẽ được nhận tiền trợ cấp cho thời gian quá độ, nếu đã có ít nhất một năm là nghị sỹ Quốc hội liên bang. Tiền trợ cấp cho thời gian quá độ được cấp theo hướng, mỗi năm là nghị sỹ Quốc hội liên bang sẽ được nhận một tháng lương bằng mức lương tháng của nghị sỹ Quốc hội liên bang, nhiều nhất là 18 tháng. Khoảng thời gian là nghị sỹ Quốc hội liên bang trên một nửa năm thì được tính tròn một năm.
      Nếu nghị sỹ Quốc hội liên bang được tái cử thì sẽ ngừng việc thanh toán hàng tháng cho nghị sỹ này tiền trợ cấp nêu trên. Nếu nghị sỹ Quốc hội liên bang đã nhận được tổng số tiền trợ cấp cho thời gian quá độ, thì số tiền được thanh toán hàng tháng lẽ ra phải ngừng thanh toán, cũng được thanh toán. Chủ tịch Quốc hội liên bang quyết định phần giá trị nào được thanh toán.
      Nếu người đã từng là nghị sỹ Quốc hội liên bang qua đời, các khoản phụ cấp theo quy định nêu trên tiếp tục trả hoặc chuyển cho người vợ còn sống, con cháu cùng huyết thống cũng như con nuôi của nghị sỹ, nếu các yêu cầu chăm sóc theo quy định của Luật về các quan hệ pháp lý của nghị sỹ Quốc hội liên bang không có.

05-luong-cua-3009-300.jpg

      Tiền thâm niên công tác
      Cuối cùng, phải kể đến khoản tiền thâm niên công tác của nghị sỹ thuộc khoản chi phí nhằm bảo đảm sự độc lập tương đối của nghị sỹ. Người nào là thành viên của Quốc hội liên bang 8 năm (tương ứng với 2 nhiệm kỳ Quốc hội liên bang) thì có quyền được hưởng khoản tiền thâm niên công tác. Người nào thôi không làm nghị sỹ mà có thời gian làm nghị sỹ ít hơn thì có thể làm đơn yêu cầu được tiếp tục bảo hiểm hưu trí theo Luật về bảo hiểm hưu trí hoặc có thể nhận được một khoản tiền, nếu từ bỏ việc tính hưu trí đối với khoảng thời gian đó. Khác với tiền hưu trí, khoản tiền thâm niên công tác bị đánh thuế đầy đủ.

Minh Tuân