Kết nối hệ sinh thái kinh tế biển

- Thứ Năm, 13/12/2018, 08:22 - Chia sẻ
Việt Nam được các nhà khoa học thế giới đánh giá là nằm trên vùng lãnh thổ (bao gồm cả phần đất liền và biển) cực kỳ phức tạp về các điều kiện địa lý và địa chất. Điều này đã tạo cho tài nguyên địa học tại Việt Nam rất đa dạng, phong phú có đầy đủ các cấp độ quy mô từ thế giới đến siêu khu vực, khu vực và địa phương.

Khai thác tiềm năng và lợi thế về biển

Quyết định số 47/2006/QĐ-TTg của Chính phủ phê duyệt “Đề án tổng thể về điều tra cơ bản và quản lý tài nguyên - môi trường biển đến năm 2010, tầm nhìn đến năm 2020”. Đây là một Đề án lớn thuộc nhiều lĩnh vực của Chính phủ và có sự tham gia thực hiện của nhiều bộ, ngành liên quan. Qua hơn 10 năm triển khai thực hiện Đề án 47, những  kết quả của các dự án đã được chuyển giao vào thực tiễn và đang góp phần thiết thực vào sự nghiệp phát triển kinh tế biển, bảo vệ an ninh chủ quyền quốc gia... Có thể kể đến kết quả đạt được của Dự án “Xác định ranh giới ngoài thềm lục địa Việt Nam” do Ủy ban Biên giới Quốc gia (Bộ Ngoại giao) chủ trì, đặc biệt là các kết quả về địa chất, địa mạo là những cơ sở khoa học quan trọng xác định ranh giới ngoài thềm lục địa, góp phần bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán quốc gia của Việt Nam trên biển.


Đề án đã thu được một số kết quả quan trọng có tính chất hệ thống về điều kiện tự nhiên và tài nguyên môi trường biển như: Địa hình đáy biển, địa chất khoáng sản, địa động lực, địa chất môi trường, tai biến địa chất, tài nguyên sinh vật, tài nguyên vị thế, đất đai, tiềm năng nước ở một số vùng ven biển, một số hải đảo và một số cửa sông… Bước đầu đã phát hiện tiềm năng tài nguyên khoáng sản, các đặc điểm địa chất, địa động lực, địa chất khoáng sản, địa chất môi trường và dự báo tai biến địa chất; thu được nhiều kết quả quan trọng về các yếu tố tự nhiên, môi trường, tai biến địa chất, địa chất công trình trên nền san hô trong vùng biển Trường Sa và DKI. Đặc biệt, công nghệ xử lý các yếu tố tự nhiên tác động lên công trình đã phục vụ kịp thời cho công tác thiết kế, thi công xây dựng, sử dụng, nâng cấp công trình DKI; đề xuất các giải pháp quản lý, sử dụng hợp lý, bảo tồn tài nguyên vị thế, kỳ quan sinh thái và kỳ quan địa chất vùng biển, ven bờ và các đảo Việt Nam.

 Qua đó góp phần định hướng phát triển kinh tế dịch vụ biển và du lịch biển được đẩy mạnh, phù hợp và thúc đẩy phát triển bảo tồn tự nhiên dưới các hình thức các khu di sản, các công viên địa chất, khu dự trữ sinh quyển, khu bảo tồn biển, vườn quốc gia biển và các vùng đất ngập nước có tầm quan trọng cấp địa phương, quốc gia và quốc tế. Đóng góp thiết thực vào việc cam kết thực thi các Công ước quốc tế liên quan đến biển như: Công ước quốc tế về Luật Biển, Đa dạng sinh học, Bảo vệ các di sản văn hóa.

Tiến tới là một cường quốc biển

Những thành tựu khoa học mới, tiên tiến, hiện đại trở thành nhân tố trực tiếp thúc đẩy phát triển bền vững kinh tế biển. Đến năm 2030, các ngành kinh tế thuần biển đóng góp khoảng 10% GDP cả nước; kinh tế của 28 tỉnh, thành phố ven biển ước đạt 65 - 70% GDP cả nước. Thiết lập bộ cơ sở dữ liệu số hoá về biển, đảo, bảo đảm tính tích hợp, chia sẻ và cập nhật. Ngăn ngừa, kiểm soát và giảm đáng kể ô nhiễm môi trường biển; tiên phong trong khu vực về giảm thiểu chất thải nhựa đại dương…

Mặc dù, những năm qua Nhà nước đã chú trọng đầu tư về nguồn lực cho công tác cho điều tra cơ bản (ĐTCB) biển, cơ cấu tổ chức bộ máy và các văn bản pháp quy liên quan tới công tác ĐTCB biển và hải đảo từng bước được hoàn thiện, song công tác này vẫn còn bộc lộ những hạn chế: chưa quản lý thống nhất được các số liệu về ĐTCB biển và hải đảo của các bộ, ngành và địa phương. Ô nhiễm môi trường biển ở nhiều nơi còn diễn ra nghiêm trọng, ô nhiễm rác thải nhựa đã trở thành vấn đề cấp bách; các hệ sinh thái biển, đa dạng sinh học biển bị suy giảm; một số tài nguyên biển bị khai thác quá mức; công tác ứng phó với biến đổi khí hậu, nước biển dâng, biển xâm thực còn nhiều hạn chế, bất cập.

Nguyên nhân của những hạn chế nêu trên là do lĩnh vực ĐTCB biển là lĩnh vực mới, điều tra khắc nghiệt, nguy hiểm; nhiều khu vực điều tra có tình hình an ninh rất phức tạp, công tác khảo sát thực địa trên biển phụ thuộc rất nhiều vào điều kiện thời tiết; việc bố trí kinh phí cho các dự án không đáp ứng yêu cầu kế hoạch điều tra... Trong khi đó, đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý và cán bộ kỹ thuật thực hiện công tác ĐTCB nhìn chung còn thiếu về số lượng, yếu về chất lượng; chưa có đủ cơ chế, văn bản pháp lý và nguồn lực nhằm phát huy tối đa vị trí, vai trò của cơ quan chuyên trách quản lý nhà nước về ĐTCB…

 Bộ trưởng Bộ TN - MT Trần Hồng Hà nhấn mạnh Việt Nam phải trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu từ biển, phát triển bền vững, thịnh vượng, an ninh và an toàn; phát triển bền vững kinh tế biển gắn liền với bảo đảm quốc phòng, an ninh, giữ vững độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, tăng cường đối ngoại, hợp tác quốc tế về biển, góp phần duy trì môi trường hòa bình, ổn định cho phát triển. Trong đó, lấy KH - CN tiên tiến, hiện đại và nguồn nhân lực chất lượng cao làm nhân tố đột phá. Ưu tiên đầu tư ngân sách nhà nước cho công tác nghiên cứu, điều tra cơ bản, đào tạo nguồn nhân lực về biển; kết hợp huy động các nguồn lực trong và ngoài nước. Chủ động, nâng cao hiệu quả hội nhập, hợp tác quốc tế, ưu tiên thu hút các nhà đầu tư chiến lược hàng đầu thế giới có công nghệ nguồn, trình độ quản lý tiên tiến trên nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi, tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam.

Minh Ngọc