Giao lưu trực tuyến "Sách Khoa học và Công nghệ Việt Nam 2014 với việc hoạch định chính sách kinh tế- xã hội"

- Thứ Hai, 11/05/2015, 20:50 - Chia sẻ
Để góp phần truyền tải những bước đổi mới trong thực thi chính sách phát triển khoa học, công nghệ (KHCN), tiềm lực, thành tựu KHCN, nhận thức của công chúng về KHCN... tập hợp trong cuốn sách KH và CN Việt Nam 2014, Báo điện tử Đại biểu nhân dân phối hợp với Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển truyền thông khoa học và công nghệ, Bộ Khoa học- Công nghệ tổ chức giao lưu trực tuyến với chủ đề Sách Khoa học và Công nghệ Việt Nam 2014 với việc hoạch định chính sách kinh tế- xã hội.

Các đại biểu tham gia giao lưu trực tuyến: Phó chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường Lê Bộ Lĩnh; Cục trưởng Cục Thông tin KH và CN quốc gia Lê Xuân Định; Viện trưởng Viện Tiên tiến KH và CN, Đại học Bách Khoa Hà Nội Phạm Thành Huy; GS- TSKH, Nguyên Viện trưởng Viện Toán học Ngô Việt Trung.

Giao lưu là phương thức thu hút ý kiến của chuyên gia và cộng đồng xã hội góp phần triển khai Nghị quyết Trung ương 6 về phát triển KHCN; Luật Khoa học và Công nghệ năm 2013 vào cuộc sống, về vai trò động lực then chốt của KHCN trong phát triển KT- XH và bảo vệ Tổ quốc.

Sau đây là nội dung buổi giao lưu:

Nguyễn Mai Châu, Thanh Xuân, Hà Nội: Thưa Phó chủ nhiệm Lê Bộ Lĩnh, xin ông cho biết, vai trò của KHCN trong quá trình tái cơ cấu, chuyển đổi mô hình tăng trưởng, nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế?

Phó chủ nhiệm Lê Bộ Lĩnh: Đây là câu hỏi lớn. Tôi chỉ xin trao đổi mấy khía cạnh chủ yếu. Thứ nhất, khi nói đến tái cơ cấu nền kinh tế gắn với chuyển đổi mô hình tăng trưởng, nâng cao chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế là chúng ta đã phải cần đến luận cứ khoa học của quá trình này, nghĩa là đây không phải là một mong muốn chủ quan, dù thực tế đã đẩy chúng ta đến một cảm nhận rõ ràng cần phải thực hiện một cuộc chuyển đổi như vậy. Tái cấu trúc nền kinh tế là gì, bắt đầu từ đâu, lộ trình ra sao, kiểm soát tiến trình này như thế nào? Tại sao cần chuyển đổi mô hình tăng trưởng, bản chất của mô hình tăng trưởng mới là gì? Sức cạnh tranh hiện tại và tương lai của nền kinh tế là gì? Việc chuyển đổi sang mô hình tăng trưởng mới có liên quan như thế nào với tái cấu trúc và thúc đẩy nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế?... Rất nhiều câu hỏi tương tự như vậy đòi hỏi phải trả lời một cách khoa học và trên thực tế thì các nhà khoa học, các chuyên gia trong các lĩnh vực khoa học xã hội, nhân văn, khoa học tự nhiên và KHCN đã và đang nghiên cứu, tìm câu trả lời. Nếu chúng ta không có luận cứ khoa học đầy đủ cho tiến trình này thì rất dễ làm theo phong trào, chính sách, giải pháp không nhất quán và chuẩn xác.

Khía cạnh thứ hai thể hiện vai trò của KHCN là đẩy mạnh đổi mới sáng tạo, ứng dụng các thành tựu KHCN là yếu tố then chốt để nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế và là cốt lõi của mô hình tăng trưởng mới. Điều này đòi hỏi chúng ta phải đầu tư phát triển KHCN có trọng điểm, khuyến khích doanh nghiệp đầu tư nghiên cứu ứng dụng và đổi mới công nghệ, phát triển các ngành có giá trị gia tăng cao, sức cạnh tranh lớn có khả năng tạo ra sự chuyển biến chất lượng của cả nền kinh tế. Nói cách khác, chúng ta không thể dựa vào tài nguyên, lao động chất lượng thấp để phát triển được nữa.

Thực tế trong thời gian vừa qua đã cho thấy, việc ứng dụng các thành tựu KHCN đã tạo ra sự chuyển biến mạnh mẽ trong các ngành điện tử viễn thông, giao thông, xây dựng và nâng cao năng suất, chất lượng của nhiều sản phẩm nông nghiệp. Có nhiều doanh nghiệp đi tiên phong trong phát triển, ứng dụng KHCN đã tạo lập cho mình vị thế vượt trội trên thị trường như các doanh nghiệp trong lĩnh vực điện tử viễn thông mà điển hình là Viettel; Công ty sơn Kova; Công ty cổ phần bảo vệ thực vật An Giang, Công ty giống cây trồng Trung ương, Công ty Cơ khí Quang Trung... và nhiều doanh nghiệp khác đã nắm bắt xu thế phát triển mới, thoát khỏi sự cám dỗ của đất đai, tài nguyên.

Hoàng Văn Minh, Gia Lâm, Hà Nội: Là chủ biên của cuốn sách KH và CN Việt Nam năm 2014, xin Ông cho biết, mục đích của việc biên soạn cuốn sách này?

Cục trưởng Lê Xuân Định: Thông thường, trong mỗi ngành, mỗi lĩnh vực đều xuất bản những ấn phẩm cung cấp thông tin tổng quan, toàn diện về kết quả hoạt động của ngành hoặc lĩnh vực đó cho các nhà lãnh đạo, quản lý và công chúng. Trong lĩnh vực KHCN cũng như vậy, Sách KH và CN Việt Nam được biên soạn nhằm cung cấp thông tin cho các cơ quan Đảng và Nhà nước, các nhà hoạch định chính sách phát triển KT- XH, nhà quản lý KHCN, nhà nghiên cứu và xã hội nói chung về hoạt động KHCN của nước nhà.

Sách KH và CN Việt Nam 2014 cung cấp một bức tranh toàn cảnh với số liệu chính thống, cập nhật về hoạt động KHCN Việt Nam, đặc biệt trong cuốn sách này có nội dung công bố số liệu điều tra chính thức, phân tích sâu về nhân lực, kinh phí cho hoạt động nghiên cứu và phát triển (R&D).  

Đối với các nhà lãnh đạo, quản lý thì đây chính là cơ sở quan trọng cho quá trình hoạch định chính sách và ra quyết định dựa trên cứ liệu thực tế (evident base decision making).

Sách KH và CN Việt Nam 2014 cũng được Bộ KHCN biên soạn với mục đích công khai và minh bạch hóa thông tin về các hoạt động KHCN đối với xã hội, để công chúng thấy rõ hơn về các hoạt động KHCN đang diễn ra trong nước, nâng cao nhận thức và sự tham gia của công chúng vào các hoạt động KHCN đúng theo tinh thần của Ngày KH và CN Việt Nam 18.5.

Mai Lan (35 tuổi), Quảng Ngãi: Là một người làm công tác nghiên cứu khoa học, Ông đánh giá như thế nào về vai trò của sách KH và CN Việt Nam 2014?

Viện trưởng Phạm Thành Huy: Chúng tôi hoan nghênh sự ra mắt của Sách trắng về KHCN Việt Nam lần thứ hai năm 2014. Đây là kênh thông tin chính thức của Bộ KHCN nhằm cung cấp bức tranh toàn cảnh, xác thực với những con số cụ thể về các hoạt động KHCN của đất nước trong những năm vừa qua, nhất là các hoạt động đã được triển khai trong năm 2014.

Theo tôi, những thông tin công bố trong Sách trắng về KHCN Việt Nam 2014 sẽ giúp không chỉ các nhà nghiên cứu, quản lý khoa học và Chính phủ có được các thông tin về thực trạng, các thành tựu của hoạt động KHCN, trên cơ sở đó định hướng cho hoạt động của mình và đơn vị mình, mà còn cung cấp cho toàn thể người dân, cộng đồng thông tin về hoạt động cũng như vai trò của hoạt động KHCN.

Việc cuốn sách tiếp tục cập nhật thông tin về các văn bản pháp luật, các hướng dẫn thi hành triển khai Luật KHCN 2013 và công bố một số các chỉ tiêu thống kê tổng hợp về nghiên cứu và phát triển, nhân lực nghiên cứu và phát triển, chi cho nghiên cứu và phát triển sẽ là những thông tin hết sức quan trọng và cần thiết đối với những người làm công tác khoa học và quản lý khoa học.

Lê Ngọc Bắc, Phủ Lý, Hà Nam: Sách KH và CN Việt Nam 2014 đã hệ thống toàn diện những đổi mới quản lý nhà nước về KHCN của nước ta thời gian qua. Việc hệ thống lại những đổi mới này trong một cuốn sách có giá trị như thế nào, thưa Ông? Và những đổi mới đó, theo Ông, đã đáp ứng được kỳ vọng của các nhà khoa học hay chưa?

GS- TSKH Ngô Việt Trung: Những đổi mới về quản lý KHCN trong thời gian qua chỉ là những bước đi đầu tiên trong quá trình xây dựng một nền khoa học theo đúng nhu cầu phát triển của đất nước. Tuy nhiên, vấn đề chính là việc thực thi các đổi mới đó trong thực tiễn như thế nào. Các nhà khoa học đều cho rằng những thay đổi trong thực tế hoạt động khoa học hiện nay chưa giải quyết được những bất cập cơ bản trong KHCN.

Phạm Thị Mai, Diễn Châu, Nghệ An: Theo quy định, QH xem xét, quyết định chủ trương đầu tư đối với các công trình trọng điểm quốc gia. Và các thông tin KHCN đầy đủ, chính xác sẽ là căn cứ quan trọng để QH, ĐBQH đưa ra những ý kiến và quyết sách của mình. Điều này đã được thực hiện như thế nào trong thời gian qua, thưa Ông?


Phó chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường Lê Bộ Lĩnh giao lưu cùng bạn đọc

Phó chủ nhiệm Lê Bộ Lĩnh: Không chỉ đối với các công trình quan trọng quốc gia, mà đối với các vấn đề khác, đặc biệt là chiến lược, kế hoạch phát triển KT- XH 5 năm và hàng năm, QH, các ĐBQH đều cần phải được cung cấp các thông tin, luận cứ khoa học phục vụ cho việc xem xét, thảo luận, quyết định.

Đối với các công trình quan trọng quốc gia do QH quyết định chủ trương đầu tư như Nhà máy thủy điện Sơn La, Nhà máy Lọc dầu Dung Quất, Dự án Đường sắt cao tốc Bắc - Nam, Dự án Nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận... yêu cầu này càng trở nên quan trọng do tính chất phức tạp và chuyên môn sâu mà nếu không có đầy đủ thông tin và căn cứ khoa học sẽ khó có quyết định chính xác. Trong quá trình thẩm tra và thảo luận về các dự án này, cơ quan thẩm tra đã tổ chức nhiều hội thảo khoa học, xin ý kiến các nhà chuyên môn, cung cấp thông tin có độ tin cậy cao cho các đại biểu. Nhờ đó, QH đã có quyết định phù hợp.

Đối với Dự án Cảng hàng không quốc tế Long Thành, sau khi QH cho ý kiến lần đầu tại Kỳ họp thứ Tám, Ủy ban Kinh tế phối hợp với các cơ quan của QH đã tổ chức nghe các chuyên gia thuộc nhiều lĩnh vực bày tỏ quan điểm của mình, yêu cầu cơ quan trình dự án cung cấp thông tin, giải trình bổ sung. Ý kiến của các chuyên gia, kể cả các ý kiến đồng tình và không đồng tình, đều được xem xét cẩn trọng để làm rõ sự cần thiết, tính chất, quy mô, yêu cầu về công nghệ và tính hiệu quả của dự án. Những thông tin này sẽ được cung cấp cho các ĐBQH để xem xét, quyết định.

Mai Anh, Lai Châu: Ông có cho rằng những đổi mới quản lý nhà nước về KHCN hiện nay chưa xứng tầm với tiềm lực?


Viện trưởng Viện Tiên tiến KH và CN, Đại học Bách khoa Hà Nội Phạm Thành Huy giao lưu cùng bạn đọc

Viện trưởng Phạm Thành Huy: Những năm vừa qua, Bộ KH và CN, đặc biệt là các đồng chí lãnh đạo Bộ hết sức tâm huyết, quyết tâm xây dựng và phát triển các chính sách đổi mới quản lý nhà nước về KHCN. Việc Luật KHCN 2013 trong đó có nhiều chính sách đổi mới về phương thức đầu tư, cơ chế cấp tài chính cho các đề tài, dự án, đến chính sách trọng dụng nhân lực được QH thông qua chính là một minh chứng cụ thể cho những nỗ lực này.

Tuy nhiên, tôi được biết trong quá trình triển khai thi hành Luật và chuẩn bị các dự thảo nghị định, thông tư hướng dẫn, quy định chi tiết Luật KHCN còn gặp nhiều khó khăn nhất là những vấn đề liên quan đến nhiều bộ, ngành. Chính vì vậy, chúng tôi, những người làm công tác nghiên cứu khoa học rất mong muốn Chính phủ và QH tiếp tục ủng hỗ mạnh mẽ hơn nữa những chính sách đổi mới của Bộ KHCN, nhất là các vấn đề liên quan đến áp dụng khoán chi đối với nhiệm vụ KHCN sử dụng ngân sách nhà nước; huy động nguồn vốn ngoài ngân sách đầu tư cho KH và CN; quỹ phát triển KH và CN của doanh nghiệp.

Huyền My, Đà Nẵng: Thực tế, từ ý tưởng sáng tạo tới ra đời sản phẩm KHCN, ngoài sự đầu tư của nhà nước, bản thân các bộ, ngành cần phải có sự phối hợp tùy thuộc vào sản phẩm thuộc lĩnh vực của ngành mình. Vậy, xin Ông cho biết, việc phối hợp giữa Bộ KHCN với các bộ, ngành trong lĩnh vực này được thể hiện như thế nào? Liệu đã bảo đảm sự gắn kết chưa, thưa Ông?


Cục trưởng Cục Thông tin KHCN quốc gia Lê Xuân Định giao lưu cùng bạn đọc

Cục trưởng Lê Xuân Định: Có thể nói, KHCN ngày càng có tác động sâu rộng ở mọi lĩnh vực, mọi ngành. Do vậy, Bộ KHCN luôn phối hợp chặt chẽ với các bộ, ngành trong việc xác định các trọng tâm chiến lược, xác định các ưu tiên trung hạn và hàng năm về KHCN trong các ngành, các lĩnh vực.

Một khía cạnh quan trọng trong gắn kết với các bộ, ngành chính là sự phối hợp chặt chẽ trong quá trình thể chế hóa Nghị quyết 20-NQ/TW và các quy định của Luật KHCN năm 2013, hệ thống các văn bản hướng dẫn thi hành Luật bao gồm các nghị định, thông tư hướng dẫn và đặc biệt quan trọng là phối hợp triển khai nghiêm túc, hiệu quả các văn bản này.

Bộ KHCN cũng đã phối hợp các bộ, ngành xây dựng lộ trình thực hiện Chiến lược phát triển KHCN giai đoạn 2011 – 2020, Kế hoạch thực hiện Nghị quyết 20-NQ/TW của Hội nghị lần thứ 6 của BCHTƯ Khóa XI của Đảng về phát triển khoa học và công nghệ phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế.

Hàng năm, Bộ KHCN phối hợp với các bộ, ngành xây dựng kế hoạch công tác, thực hiện các nhiệm vụ KHCN; phối hợp chặt chẽ với các bộ, ngành trong việc thực hiện 27 chương trình, đề án quốc gia về KHCN.

Một trong những điểm đổi mới quan trọng là cơ chế đặt hàng, đó là bộ, ngành đặt hàng sản phẩm KHCN nào sẽ phải có trách nhiệm ứng dụng sản phẩm KHCN đó.

Như vậy, để có một sản phẩm KHCN được ứng dụng trong thực tiễn cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa Bộ KHCN với các bộ, ngành liên quan trong quá trình xác định các trọng tâm chiến lược, mục tiêu ưu tiên đến việc thiết lập và triển khai các chương trình, đề án KHCN, đặc biệt là các chương trình, đề án có tính liên ngành.

Nguyễn Thùy Linh, Hạ Long, Quảng Ninh: Thưa ông, là một nhà khoa học, Ông có thể cho biết những giá trị mà sách KH và CN Việt Nam 2014 mang lại đối với quá trình tham khảo thông tin, định hướng hoạch định chính sách phát triển KT-XH của trung ương và địa phương?


GS- TSKH, nguyên Viện trưởng Viện Toán học Ngô Việt Trung giao lưu cùng bạn đọc

GS- TSKH Ngô Việt Trung: Giá trị quan trọng nhất của Sách trắng về KHCN 2014 là cung cấp những thông tin định lượng chính xác về tình hình KHCN Việt Nam. Những thông tin này sẽ giúp ích cho Chính phủ và các nhà quản lý KHCN ở các cấp có thể đưa ra các chính sách, quyết định đúng đắn và phù hợp, đặc biệt là ở tầm vĩ mô.

Hồng Quang, Hà Nam: Theo Ông, nhận thức của công chúng hiện nay về KHCN như thế nào? Làm thế nào để nâng cao nhận thức, sự hiểu biết, quan tâm và thái độ của công chúng đối với KHCN?

Viện trưởng Phạm Thành Huy: Ngay từ các kết quả khảo sát công bố trong Sách KH và CN Việt Nam 2014 có thể thấy, nhân dân và công chúng nhận thức rõ về ảnh hưởng của KHCN nói chung và vai trò của KHCN đối với sự phát triển của đất nước. Tuy nhiên, để nâng cao nhận thức, sự hiểu biết, quan tâm và thái độ của công chúng đối với KHCN, ngoài việc phải công bố tới nhân dân, toàn xã hội những thông tin xác thực về thực trạng hoạt động KHCN, những kết quả, thành tựu, những điểm làm được, và cả những hạn chế, những điểm chưa làm được; định hướng và các văn bản pháp luật liên quan đến hoạt động KHCN, chúng ta cần tuyên truyền nhân rộng những mô hình, điển hình cá nhân, doanh nghiệp, đơn vị áp dụng thành công những ứng dụng, đổi mới công nghệ vào hoạt động sản xuất, tạo ra những sản phẩm mới, đem lại hiệu quả kinh tế cao. Thông qua những mô hình điển hình như vậy, cộng đồng, công chúng sẽ thấy rõ hơn, cụ thể hơn về vai trò cũng như ảnh hưởng của KHCN đối với sự phát triển của doanh nghiệp và kinh tế đất nước.

Nguyễn Nam, Quảng Trị: Để KHCN thực sự là quốc sách hàng đầu, là động lực then chốt cho phát triển nhanh và bền vững đất nước, Việt Nam cần tập trung mọi nguồn lực quốc gia cho phát triển KHCN. Vậy, để đầu tư toàn xã hội cho KHCN đạt 2% GDP vào năm 2020, thì ngay từ bây giờ Việt Nam phải có lộ trình thực hiện như thế nào, thưa Ông?

Cục trưởng Lê Xuân Định: Để đầu tư toàn xã hội cho KHCN đạt 2% GDP vào năm 2020 thì yếu tố then chốt là tạo điều kiện để huy động đầu tư của doanh nghiệp cho KHCN chiếm khoảng 1,5% GDP, doanh nghiệp đóng vai trò là nhà đầu tư lớn nhất cho KHCN chứ không phải là ngân sách nhà nước như hiện nay.

Cơ chế quỹ phát triển KHCN của doanh nghiệp đã được đề cập trong Luật KHCN 2013 và Nghị định số 95/2014/NĐ-CP ngày 17.10.2014 của Chính phủ quy định về đầu tư và cơ chế tài chính đối với hoạt động KHCN chính là hành lang pháp lý quan trọng và có tính đổi mới để hướng tới mục tiêu này.

Cụ thể, doanh nghiệp nhà nước hàng năm phải trích từ 3% - 10% thu nhập tính thuế thu nhập doanh nghiệp để lập quỹ phát triển KHCN của doanh nghiệp. Đồng thời, doanh nghiệp ngoài quốc doanh được khuyến khích trích từ thu nhập tính thuế thu nhập doanh nghiệp một tỉ lệ hợp lý, tối đa 10% để lập quỹ phát triển KHCN của doanh nghiệp.

Đây sẽ là nguồn đầu tư lớn và liên tục cho hoạt động nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ, đổi mới công nghệ tại các doanh nghiệp, với số lượng kinh phí sẽ lớn hơn nhiều lần so với nguồn đầu tư từ ngân sách nhà nước. Điều này tạo sự chuyển biến tích cực và thực sự trong quá trình đổi mới công nghệ, đổi mới sáng tạo, nâng cao sức cạnh tranh của các sản phẩm và dịch vụ của các doanh nghiệp Việt Nam. Nếu thực hiện được như vậy thì cơ cấu chi cho hoạt động KHCN sẽ tương đồng với thông lệ thế giới (nguồn chi từ doanh nghiệp là chủ đạo).

GS- TSKH Ngô Việt Trung: Theo tôi, vấn đề ở đây không phải là đầu tư bao nhiêu cho KHCN mà vấn đề chính là đầu tư như thế nào cho hiệu quả. Chúng ta cần đầu tư cho KHCN đúng việc, đúng người và cần thay đổi cách thức đầu tư.

Lê Minh Sang, Nam Đàn, Nghệ An: Ông vừa nhận định về vai trò của thông tin KHCN trong quá trình thảo luận và quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước. Vậy Sách KH và CN Việt Nam 2014 có nên đề cập vấn đề này không?

Phó chủ nhiệm Lê Bộ Lĩnh: Có thể nói, việc phát hành Sách trắng về KHCN trong hai năm qua là một hướng đi rất đúng và cần thiết nhằm cung cấp cho công chúng và các nhà quản lý, hoạch định chính sách, các ĐBQH những thông tin chính thức, có hệ thống về chính sách và thành tựu hoạt động KHCN của đất nước, khẳng định vai trò, đóng góp của KHCN trong phát triển KT- XH, nâng cao đời sống, bảo đảm an ninh quốc phòng.

Trong khi một bộ phận dư luận xã hội còn cho rằng đầu tư cho KHCN chưa mang lại hiệu quả thiết thực, nhiều đề tài nghiên cứu "bỏ ngăn kéo" thì rất cần thiết phải cung cấp các thông tin về thành tựu KHCN trong các lĩnh vực, đặc biệt là các giải pháp công nghệ, các khuyến nghị chính sách được đưa vào ứng dụng trong thực tế.

Sách KH và CN Việt Nam 2014 đã đề cập đến vai trò của thông tin KHCN trong quá trình thảo luận và quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước nhưng theo tôi, cần phải cụ thể hơn nữa.

Quang Minh, Cần Thơ: Thưa ông Phạm Thành Huy, các nghiên cứu sinh tại Viện nghiên cứu của Ông đánh giá và nhìn nhận như thế nào về các thành tựu KHCN năm 2014?

Viện trưởng Phạm Thành Huy: Đối với các nghiên cứu sinh, lực lượng chính hết sức quan trọng trong việc triển khai nghiên cứu và tạo ra các sản phẩm KHCN, vấn đề được các em quan tâm nhiều nhất là công bố khoa học; các chính sách hỗ trợ của Nhà nước đối với hoạt động nghiên cứu khoa học và các chính sách sử dụng, trọng dụng các cá nhân hoạt động lĩnh vực KHCN.

Qua trao đổi với các nghiên cứu sinh hiện đang nghiên cứu tại Viện Tiên tiến KH và CN (AIST), Trường ĐH Bách khoa Hà Nội về chủ đề này, các em đánh giá rất cao sự thay đổi trong việc đổi mới chính sách đầu tư và cơ chế tài chính đối với hoạt động KHCN, nhất là đối với các hoạt động của Quỹ Phát triển KH và CN (NAFOSTED) hỗ trợ các đề tài nghiên cứu cơ bản, trong đó kinh phí hỗ trợ đã có thể đến trực tiếp được các nghiên cứu sinh. Hơn nữa, một số chính sách hỗ trợ mới của NAFOSTED như: tài trợ nghiên cứu cho các tiến sỹ trẻ (nghiên cứu sau tiến sỹ) cũng tạo thêm nhiều động lực để các em phấn đấu nghiên cứu đạt kết quả tốt hơn trong thời gian làm luận án tiến sỹ. Sự tăng trưởng số lượng các bài báo công bố trên các tạp chí khoa học quốc tế (ISI, SCI) và số lượng các giải pháp hữu ích, sáng chế được đăng ký cũng được các em nhìn nhận và đánh giá tốt.

Nguyễn Xuân Sơn, Bến Tre: Theo Ông, việc thống kê các công trình công bố trên các tạp chí quốc tế (ISI, SCI) và các giải thưởng KHCN như giải thưởng Tạ Quang Bửu có tác động thế nào đến hoạt động nghiên cứu khoa học?


Viện trưởng Phạm Thành Huy: Công bố khoa học trên các tạp chí quốc tế (ISI, SCI) là một thước đo định lượng chất lượng nghiên cứu của các cơ quan, đơn vị nghiên cứu, đồng thời đây cũng là một thông số quan trọng trong đánh giá xếp hạng các trường đại học. Việc thống kê kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học Việt Nam công bố trên các tạp chí ISI, SCI trong sách KH và CN Việt Nam 2014 có ý nghĩa quan trọng giúp những người làm công tác khoa học tự đánh giá về những gì mình đã làm được khi so sánh với các đồng nghiệp trong khu vực và trên thế giới.

Ở trong nước, một số trường, một số lĩnh vực nghiên cứu (ví dụ: Toán, Vật lý, Khoa học vật liệu) hiện nay đã mạnh dạn đặt ra tiêu chuẩn có tối thiểu 1 bài báo SCI được công bố đối nghiên cứu sinh trong nước. Đây là động lực thúc đẩy hoạt động nghiên cứu trong các trường đại học.

Cũng trong xu hướng này, việc ra đời giải thưởng Tạ Quang Bửu, nhất là giải thưởng dành cho các nhà khoa học trẻ chắc chắn sẽ là một động lực lớn thúc đẩy các nhà khoa học trẻ nghiên cứu, tạo ra những công trình khoa học có giá trị phục vụ sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.

Lê Thanh Tùng, Thạch Hà, Hà Tĩnh: Có nhiều ý kiến cho rằng, Việt Nam không thiếu những ý thưởng sáng tạo, trong đó có sáng tạo trong lĩnh vực KHCN. Nhưng vấn đề đang vướng hiện nay là chúng ta lại thiếu cơ chế, nguồn kinh phí để nuôi dưỡng, phát triển và hiện thực hóa các sáng kiến ấy. Có nghĩa là chúng ta đang thiếu cơ chế để thúc đẩy phát triển KHCN. Ông đánh giá về vấn đề này như thế nào?

Cục trưởng Lê Xuân Định: Tinh thần đổi mới tạo điều kiện cho phát triển các ý tưởng sáng tạo được thể hiện ở các cơ chế điển hình là: cơ chế đặt hàng, cơ chế quỹ và cơ chế khoán đến sản phẩm cuối cùng. Các cơ chế mới này sẽ cởi trói cho các nhà khoa học khỏi những thủ tục đã quá cũ về tài chính và hành chính, giải phóng và tập trung sức sáng tạo của họ vào những đột phá khoa học, phát kiến công nghệ.

Tuy nhiên, từ ý tưởng sáng tạo đến hiện thực hóa ý tưởng cần có quá trình chuyển đổi, trong đó yếu tố then chốt là sự đam mê và quyết tâm của nhà khoa học trong môi trường làm việc chuyên nghiệp, quy trình chuyên nghiệp và điều kiện cơ sở vật chất bảo đảm (ví dụ phòng thí nghiệm và thư viện hiện đại), nghĩa là phải được đầu tư đến ngưỡng, bảo đảm rằng sáng tạo phải có tính tiên phong và giải quyết được các vấn đề của thực tiễn.

Ngoài cơ chế thúc đẩy thì tiềm lực KHCN của chúng ta cũng phải được đầu tư nâng cấp để thực sự trở thành bệ phóng cho những sáng tạo này. 

Trung Hiếu, Bình Phước: Phát hành sách KH và CN Việt Nam 2014 là một trong những giải pháp để tuyên truyền, đưa Luật KHCN 2013 cùng các chính sách, pháp luật về KHCN vào cuộc sống. Điều này có thực sự hiệu quả, thưa Ông?

GS- TSKH Ngô Việt Trung: Sách KH và CN Việt Nam 2014 có tác dụng giúp cho các hoạch định chính sách và giới truyền thông biết về thực trạng của KHCN. Để tuyên truyền cho công chúng cần phải có một cuốn sách cô đọng hơn, dễ hiểu hơn và có định hướng về những vấn đề bất cập của KHCN bên cạnh những thành tựu đã đạt được. Tuyên truyền còn có ý nghĩa "giáo dục", không đơn thuần chỉ là việc cung cấp thông tin.

Tường Vân, Ninh Thuận: Luật KH và CN 2013 có đề cập đến kinh phí dành cho KHCN là 2% tổng chi ngân sách. Theo Ông, lộ trình phân bổ ngân sách cần thực hiện như thế nào để đạt được mục tiêu đề ra?



Phó chủ nhiệm Lê Bộ Lĩnh: Luật KH và CN 2013 đã quy định: Nhà nước bảo đảm chi cho KH và CN từ 2% trở lên trong tổng chi NSNN hàng năm và tăng dần theo yêu cầu phát triển của sự nghiệp KHCN. Điều này có nghĩa là 2% là mức tối thiểu. Tuy nhiên cho đến nay chúng ta chưa đạt được mục tiêu đề ra.

Vấn đề là không phải chỉ phấn đấu để đạt được mức chi ngân sách như luật định mà điều quan trọng hơn phải bảo đảm chi ngân sách cho KHCN gắn với việc thực hiện các mục tiêu chiến lược phát triển KHCN phục vụ quá trình phát triển KT-XH trong từng thời kỳ.

Nếu chúng ta thực sự coi KHCN là quốc sách, là động lực then chốt của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và có các chương trình, lộ trình hiện thực hóa quan điểm này thì chúng ta sẽ có một lộ trình tài chính và ngân sách phù hợp. Do đó, việc thẩm định ngân sách cho KHCN phải gắn liền với thẩm định các chương trình, nhiệm vụ phát triển KHCN trong cùng thời kỳ. Theo cách tiếp cận này, thì nếu chúng ta có các dự án KHCN quan trọng quốc gia do QH quyết định chủ trương đầu tư thì chi ngân sách cho KHCN có thể cao hơn nhiều mức 2% tổng chi ngân sách. Mặt khác, nếu chúng ta thực hiện cơ chế tài trợ cho hoạt động KHCN thông qua các quỹ KHCN thì có thể ấn định một mức phân bổ cố định ngân sách hàng năm cho KHCN.

Vân Anh, Bạc Liêu: Trong cuốn sách KH và CN Việt Nam năm 2014 cũng đã hệ thống hóa các văn bản pháp luật liên quan đến KHCN. Đây được đánh giá là cơ sở pháp lý quan trọng để KHCN phát triển. Với hệ thống văn bản pháp luật như vậy, liệu đã đủ điều chỉnh bao phủ lĩnh vực KHCN để bảo đảm cho KHCN phát triển theo yêu cầu hiện nay chưa, thưa Ông?

Cục trưởng Lê Xuân Định: Năm 2014 được coi là năm hành động của ngành KHCN với 8 nghị định và 52 quyết định của Thủ tướng và Thông tư hướng dẫn được ban hành, góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật KHCN. Hệ thống các văn bản này đã giải quyết những nút thắt, giải phóng sức sáng tạo của nhà khoa học với hàng loạt các cơ chế và chính sách đổi mới.

Những chính sách, cơ chế này tuy là mới ở Việt Nam nhưng đã là thông lệ trên thế giới trong việc thực hiện các nhiệm vụ KHCN.

Tôi tin rằng, với việc quán triệt tinh thần đổi mới của Nghị quyết 20-NQ/TƯ và việc triển khai triệt để Luật KH và CN năm 2013 và các văn bản pháp luật liên quan sẽ là luồng gió mới để KHCN Việt Nam có một diện mạo mới.

Thảo Linh, Sóc Trăng: Trong quá trình thẩm tra các chính sách trong các lĩnh vực như đánh giá tác động môi trường của các dự án trọng điểm quốc gia, an ninh năng lượng, đa dạng sinh học, biến đổi khí hậu, quản lý thiên tai… mà Ủy ban phụ trách, Phó chủ nhiệm có thể cho biết, việc sử dụng khoa học trong việc hoạch định các chính sách này đã được các cơ quan thực hiện đến đâu?

Phó chủ nhiệm Lê Bộ Lĩnh: Khi xem xét những vấn đề này, chúng tôi đặc biệt chú ý đến việc các cơ quan trình đã tổ chức điều tra, khảo sát, nghiên cứu và tổng kết thực tiễn việc thực hiện chính sách pháp luật trong lĩnh vực này như thế nào. Nhìn chung, các dự án cơ bản đều được thực hiện theo các quy trình xây dựng và thẩm định dựa trên các luận cứ khoa học ở các mức độ khác nhau. Trong trường hợp có những vấn đề chưa rõ, hoặc chưa đầy đủ luận cứ, chúng tôi yêu cầu bổ sung các thông tin liên quan hoặc phối hợp tổ chức nghiên cứu, hội thảo xin ý kiến chuyên gia làm rõ vấn đề.

Có thể nói, thông qua các hoạt động này, chúng tôi đã thu nhận được các ý kiến khách quan mang tính phản biện cao, nhờ đó, nâng cao hàm lượng KHCN trong các quyết định chính sách như phương án công nghệ tối ưu, tính hiệu quả và khả thi của các dự án.

Tuy nhiên các lĩnh vực như đánh giá tác động môi trường của các dự án trọng điểm quốc gia, an ninh năng lượng, đa dạng sinh học, biến đổi khí hậu, quản lý thiên tai… là những vấn đề mới, đòi hỏi phải có nguồn lực, đội ngũ chuyên gia, phương tiện kỹ thuật, dữ liệu thông tin khoa học mới có thể cung cấp các luận cứ khoa học đầy đủ trong giai đoạn quyết định dự án, chính sách phát triển. Do đó, vấn đề đặt ra là các luận cứ khoa học cũng phải thường xuyên được cập nhật trong quá trình thực hiện để có những điều chỉnh về công nghệ và chính sách phù hợp.

Trần Quỳnh Chi, Lý Nhân, Hà Nam: Đâu là điểm nhấn, điểm mới của Sách KH và CN năm 2014, thưa Ông?


Cục trưởng Lê Xuân Định:  Sách KH và CN năm 2014 giới thiệu đến độc giả kết quả cuộc điều tra về nhận thức của công chúng về KHCN (lần đầu tiên được tiến hành ở Việt Nam) cho thấy những kết quả khá thú vị. Trên cơ sở đó, giúp các nhà hoạch định chính sách, nhà quản lý đưa ra những chính sách phù hợp để nâng cao nhận thức và sự tham gia của công chúng vào các hoạt động KHCN.

Huỳnh Anh Sương , Gia Lâm, Hà Nội: Được biết, đây là lần đầu tiên Bộ KHCN có cuộc điều tra nhận thức của công chúng về KHCN. Ông có thể cho biết rõ hơn về kết quả cuộc điều tra này?

Cục trưởng Lê Xuân Định: Điều tra nhận thức công chúng về KHCN nhằm mục đích thu thập và phân tích các dữ liệu về nhận thức của công chúng, mối quan tâm và sự hiểu biết của họ về KHCN, cũng như quan điểm của công chúng đối với KHCN.

Điều tra nhận thức công chúng về KHCN được tiến hành theo phương pháp luận và chuẩn mực quốc tế, đối tượng là cá nhân trong độ tuổi lao động (từ 15 tuổi trở lên, trừ khu vực an ninh, quốc phòng) ở các tỉnh/thành phố trực thuộc trung ương thuộc các nhóm: 1) Người làm việc trong cơ quan hành chính sự nghiệp; 2) Người làm việc trong khu vực doanh nghiệp (phi nông nghiệp); và 3) Người làm việc trong khu vực nông nghiệp.

Kết quả điều tra cho thấy, chuyên mục KHCN đứng thứ tư về mức độ rất được quan tâm của công chúng (26%) trong 6 chuyên mục được hỏi, sau chuyên mục thời sự, chính trị được quan tâm nhất với tỷ lệ người rất quan tâm đạt 32%, tiếp đến là chuyên mục y tế, sức khỏe (31%) và chuyên mục kinh tế, xã hội (29%), đứng trên 2 mục: giải trí và thể thao.

Về phương thức thu thập các thông tin KHCN, phổ biến nhất là ti vi chiếm 19%; tiếp theo là thông qua internet chiếm tỷ lệ 17%; thu thập qua các kênh báo chí chiếm 15%.

Về mức độ tiếp cận những kiến thức về KHCN, 81% số người được điều tra biết về hóa học trị liệu, 86% biết về công nghệ sinh học, 89% biết về năng lượng mặt trời, 77% biết về thương mại điện tử, 84% biết về hiệu ứng nhà kính, 95% biết về ô nhiễm không khí, 84% biết về lỗ thủng tần ôzôn, 98% biết về cúm gia cầm (H5N1, H7N9), 75% biết về nhân bản vô tính, 45% biết về băng thông rộng, 61% biết về trạm vũ trụ quốc tế, 53% biết về điện toán đám mây, 92% biết về biến đổi khí hậu, 89% biết về nước biển dâng, 78% biết về sinh vật biến đổi gen và 59% biết về động đất kích thích. Điều này cho thấy, công chúng nhận thức rất tốt các vấn đề liên quan đến ô nhiễm môi trường sống, dịch bệnh và biến đổi khí hậu. Kết quả điều tra cũng cho thấy nhận thức về các kiến thức KHCN của phần lớn những người được hỏi là chính xác.

Tuy nhiên, có một số lĩnh vực mà hơn nửa số người được hỏi còn mơ hồ, như các lĩnh vực liên quan đến băng thông rộng, điện toán đám mây, động đất kích thích.

Có tới 82% công chúng cho rằng, nghiên cứu khoa học có nhiều tác động tích cực hơn tác động tiêu cực. Đánh giá tác động về KHCN lên các khía cạnh trong cuộc sống thu được kết quả là y tế công cộng được công chúng đánh giá cao nhất về tác động tích cực tới đời sống.

Đánh giá về nhận định cần tăng cường đầu tư cho KHCN có tới 88% số người được hỏi cho rằng, cần tăng cường đầu tư cho KHCN, chỉ có 2% số người cho rằng không cần tăng cường đầu tư cho KHCN.

Theo kết quả điều tra, có tới 90% số người được hỏi đều đánh giá KHCN có vai trò rất quan trọng đối với sản xuất và đời sống. Đồng thời, đa số những ý kiến này cũng cho rằng, chúng ta cần có kiến thức về khoa học để cuộc sống hàng ngày của chúng ta tốt đẹp hơn.

Như vậy, qua kết quả điều tra cho thấy, KHCN là lĩnh vực bắt đầu thu hút sự quan tâm của công chúng. Tuy nhiên, công chúng mới chỉ biết đến mà chưa biết sâu những kiến thức khoa học và công nghệ, con đường tiếp cận thông tin về KHCN của công chúng chủ yếu qua TV và Internet, công chúng đánh giá cao mức độ tác động, vai trò cải thiện cuộc sống của KHCN.

Với kết quả điều tra ban đầu này, tôi hy vọng rằng, trong những cuộc điều tra tiếp theo sẽ có sự tham gia tích cực từ phía công chúng để chúng ta có một bức tranh toàn diện hơn về nhận thức của công chúng về KHCN. Kết quả điều tra này sẽ là cơ sở khoa học quan trọng để giúp các nhà quản lý, hoạch định chính sách có những quyết sách hợp lý để thúc đẩy KHCN Việt Nam phát triển.

Văn Hào, Hà Nội: Tiềm lực KHCN tuy đã có những tiến bộ nhất định nhưng nói chung vẫn còn yếu kém, dẫn đến năng lực nghiên cứu và triển khai của đa số các doanh nghiệp Việt Nam còn rất yếu đã hạn chế năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp và nền kinh tế trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực. Theo Ông, cần thêm những cơ chế gì để nâng cao khả năng nghiên cứu và triển khai các công trình KH và CN?

Viện trưởng Phạm Thành Huy: Trong giai đoạn vừa qua, Nhà nước đã tăng đáng kể đầu tư cho phát triển cơ sở hạ tầng, trang thiết bị nghiên cứu cho các viện nghiên cứu, trường đại học – các cơ sở mạnh về nghiên cứu cơ bản, và đây được xem là bước đi cần thiết nhằm xây dựng cơ sở hạ tầng, nâng cao trình độ, chất lượng và năng lực của các đơn vị nghiên cứu trong nước.

Tuy nhiên, để có thể phát triển được các công nghệ ứng dụng, giải quyết bài toán sản phẩm ở quy mô công nghiệp, có giá trị gia tăng và cạnh tranh quốc gia cao, trong giai đoạn sắp tới, Nhà nước cần chú trọng đầu tư xây dựng các viện, trung tâm nghiên cứu liên đại học – công nghiệp. Trong đó các viện nghiên cứu có tính mục tiêu sản phẩm cao, gắn liền giữa các viện nghiên cứu, trường đại học với các tập đoàn, công ty công nghiệp lớn. Việc thành lập các viện nghiên cứu này phải bảo đảm sự hội tụ nhu cầu của cả hai phía là viện, trường và công ty, tập đoàn công nghiệp, trong đó nguồn vốn đầu tư cho phát triển các viện này phải đến từ nhiều phía bao gồm đóng góp của các tập đoàn/công ty (chủ yếu), hỗ trợ của Nhà nước và vốn đối ứng của chính bản thân các trường, viện nghiên cứu.

Hơn nữa, ngoài việc đã quy định trong Luật KH và CN 2013 về việc dành tối thiểu 10% thu nhập của doanh nghiệp cho hoạt động nghiên cứu và phát triển, Bộ KH và CN và Chính phủ cần có ngay những chính sách hướng dẫn thực hiện cụ thể cũng như chính sách và cơ chế giám sát việc triển khai thực hiện Luật.

GS- TSKH Ngô Việt Trung: Bản thân việc hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực sẽ thúc đẩy sự việc áp dụng KHCN vào sản suất. Hàng hóa chúng ta chỉ có thể cạnh tranh nếu chúng tốt hơn và rẻ hơn. Muốn làm được điều này không có cách gì khác là phải dựa vào việc nghiên cứu và triển khai KHCN. Chính phủ phải có những chính sách thúc đẩy nền công nghiệp tạo ra sản phẩm thực sự.

Ngọc Hà, Bình Định: Tôi muốn hỏi ông Phạm Thành Huy, những khó khăn, vướng mắc trong cơ chế, chính sách về KHCN hiện tại, đặc biệt là đối với việc nghiên cứu khoa học trong các trường đại học là gì?

Viện trưởng Phạm Thành Huy: Giảng dạy và nghiên cứu khoa học là hai nhiệm vụ nòng cốt, song hành trong các trường đại học, nhất là các trường đại học phát triển theo định hướng đại học nghiên cứu.

Theo tôi vấn đề khó khăn, vướng mắc nhất trong cơ chế chính sách về KH và CN đối với các trường đại học chính là cơ chế cấp và quản lý thực hiện các đề tài, nhiệm vụ KHCN trong đó các giảng viên còn phải dành nhiều thời gian để chuẩn bị báo cáo kiểm tra và báo cáo tài chính thay vì dành thời gian đó cho chính hoạt động nghiên cứu.

Ngoài ra, do kinh phí hạn chế, việc đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng nghiên cứu, hỗ trợ bảo đảm vận hành bền vững các phòng thí nghiệm nghiên cứu trong các trường đại học cũng gặp nhiều khó khăn và cần có những chính sách hỗ trợ cụ thể của Nhà Nước.

Trần Thanh Mai (42 tuổi), Hà Nội: Tôi muốn hỏi ông Lê Bộ Lĩnh, KHCN có vai trò quan trọng trong hoạch địch chính sách. Vậy tại sao QH không tập hợp các quyết sách KHCN trong nhiệm kỳ hay từng năm để công bố rộng rãi đến cử tri ?

Phó chủ nhiệm Lê Bộ Lĩnh: Đây là câu hỏi rất hay. Như trên tôi đã nói, việc phát hành Sách trắng về KHCN là một việc làm cần thiết, đáp ứng đòi hỏi của công chúng. Chúng tôi cũng đã đề nghị Bộ KHCN công bố rộng rãi các kết quả nghiên cứu của các chương trình KHCN quốc gia, các chương trình, đề tài, dự án cấp Nhà nước, cấp Bộ và kết quả nghiên cứu khoa học của các tổ chức KHCN.

Hiện nay, Trung tâm Thông tin KH và CN quốc gia cũng đã thường xuyên ban hành các ấn phẩm giới thiệu thành tựu KHCN trong và ngoài nước. Cuối mỗi nhiệm kỳ QH, Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường đã xây dựng Kỷ yếu, trong đó có tập hợp các quyết sách KHCN của QH, UBTVQH do Ủy ban thẩm tra. Tuy nhiên, ấn phẩm này chưa được phổ biến rộng rãi đến cử tri. Chúng tôi sẽ ghi nhận ý kiến của bạn.

Phạm Minh Đức, Cầu Giấy, Hà Nội: Sách KH và CN Việt Nam 2014 lần đầu tiên đề cập đến nhận thức của công chúng về KHCN, trong đó chỉ ra rằng, các vấn đề có liên quan đến “phát minh/phát hiện khoa học mới” hay “sáng chế mới nhất trên thế giới về công nghệ mới” lại không được đa số công chúng quan tâm. Ông bình luận gì về vấn đề này?

GS- TSKH Ngô Việt Trung:  Công chúng không quan tâm đến các vấn đề khoa học chính là vì khoa học chúng ta chưa đi vào đời sống. Bất kỳ hoạt động sản xuất nào đều cần đến khoa học nếu muốn sản phẩm của mình tốt hơn, rẻ hơn. Kinh tế của chúng ta vẫn là một nền kinh tế quốc doanh. Các doanh nghiệp nhà nước thường tăng giá để tăng doanh thu chứ không nghĩ cách áp dụng các tiến bộ khoa học để hạ giá thành sản phẩm. Nếu một nền kinh tế hoạt động không cần đến khoa học thì khoa học không thể đi vào đời sống và đại đa số người dân sẽ dửng dưng với các vấn đề của khoa học.

Nguyễn Thị Châu, Ân Thi, Hưng Yên: Thưa Ông, Sách Trắng về KHCN Việt Nam 2014 đã hệ thống các giải thưởng KHCN chính thức của nước ta. Ông có thể cho biết ý nghĩa của các giải thưởng này đối với cộng đồng các nhà khoa học Việt Nam. Cá nhân Ông đánh giá cao giải thưởng nào nhất?

GS- TSKH Ngô Việt Trung: Rất khó so sánh các giải thưởng với nhau vì mỗi giải thưởng nhằm những mục đích khác nhau và trao cho những đối tượng khác nhau. Ta chỉ có thể so sánh cách xét duyệt các giải thưởng. Nếu cách xét duyệt không tốt thì sẽ lọt những người không xứng đáng được nhận giải và việc này sẽ xói mòn uy tín của giải thưởng.

Tôi coi trọng giải thưởng Tạ Quang Bửu về khoa học cơ bản vì lần đầu tiên chúng ta có hội đồng giải thưởng chỉ gồm các nhà khoa học tiêu biểu do chính cộng đồng khoa học lựa chọn. Chỉ có các nhà khoa học mới biết công trình nào xứng đáng được trao giải.

Phạm Hà Anh, Hà Tĩnh: Thưa Ông, đâu là sự hỗ trợ từ cơ chế, chính sách để tháo gỡ những vướng mắc cho nghiên cứu khoa học trong các trường đại học?

Viện trưởng Phạm Thành Huy: Trong những năm vừa qua, các trường đại học trong phạm vi tự chủ của mình đã có nhiều giải pháp cụ thể để phát triển hoạt động nghiên cứu. Cụ thể là các chính sách ưu tiên trong tuyển dụng nhằm thu hút các cán bộ trẻ có trình độ cao về làm giảng viên; các chính sách ưu tiên cho các cán bộ trẻ, các cán bộ trẻ đang làm nghiên cứu sinh trong việc đăng ký thực hiện các đề tài nghiên cứu các cấp, nhất là các đề tài nghiên cứu cấp cơ sở. Chính sách khen thưởng tác giả các công trình khoa học được đăng trên các tạp chí khoa học quốc tế (SCI), cũng như các đề tài nghiên cứu ứng dụng đem lại hiệu quả kinh tế cao. Tại trường ĐH Bách Khoa Hà Nội các chính sách này đã đem lại hiệu quả cụ thể như: số lượng tiến sỹ trẻ được đào tạo ở nước ngoài về trường làm việc, và số lượng các công trình công bố trên các tạp chí ISI và SCI của trường tăng mạnh trong những năm qua.

Về cơ chế chính sách, việc tiếp tục đẩy mạnh cơ chế cấp kinh phí nghiên cứu khoa học thông qua các Quỹ và áp dụng rộng rãi cơ chế khoán chi trong nghiên cứu khoa học, cùng với cơ chế sử dụng, trọng dụng cá nhân hoạt động KHCN, các nhà khoa học trẻ tài năng sẽ là những cơ chế đột phá cho phát triển hoạt động nghiên cứu trong các trường đại học.


Triển lãm Sản phẩm công nghiệp hỗ trợ Việt Nam 2014

Nguyễn Thế Nam (32 tuổi), TP Hồ Chí Minh: Tôi là người làm KHCN, tôi thấy cần phải công bố sách trắng về KHCN 2014 như sự kiện KHCN lớn, thu hút nhiều đối tượng cũng quan tâm, khai thác ?

Viện trưởng Phạm Thành Huy: Chúng tôi hoàn toàn nhất trí với ý kiến của bạn. Trên thực tế, Bộ KHCN và Cục Thông tin KH và CN quốc gia đã có kế hoạch cùng nhiều hoạt động để công bố, giới thiệu rộng rãi cuốn sách KH và CN Việt Nam năm 2014 đến công chúng. Việc kết hợp với Báo điện tử Đại biểu nhân dân tổ chức buổi giao lưu trực tuyến hôm nay cũng là một hoạt động nằm trong kế hoạch này.

Tôi được biết, tại Kỳ họp QH sắp tới, Cục Thông tin KH và CN quốc gia sẽ gửi tặng cuốn sách này tới tất cả các ĐBQH. Chúng tôi hy vọng rằng, các thông tin trong cuốn sách này sẽ được các ĐBQH tham khảo, sử dụng trong việc đưa ra các quyết sách hoạch định chính sách kinh tế - xã hội của đất nước.

Hơn nữa, để công chúng có thể tiếp cận đến cuốn sách này, bản điện tử của cuốn sách sẽ được công bố đầy đủ trên trang web của Cục Thông tin KH và CN quốc gia.

Vũ Tiến Thành, Tiên Du, Bắc Ninh: KHCN là sự nghiệp của toàn dân, là động lực then chốt phát triển KT-XH. Vậy Ông có thể cho biết vai trò của cơ quan lập pháp và hành pháp trong tiến trình hoàn thiện, tạo hành lang pháp lý cho phát triển KHCN?

Phó chủ nhiệm Lê Bộ Lĩnh: Có thể nói, trong những năm gần đây, chúng ta đã tập trung xây dựng và hoàn thiện một loạt các luật liên quan trực tiếp đến hoạt động KHCN như Luật KH và CN (sửa đổi), Luật Chuyển giao công nghệ, Luật Sở hữu trí tuệ, Luật Tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật, Luật Chất lượng sản phẩm hàng hóa, Luật Công nghệ cao, Luật Đo lường... và một loạt các luật chuyên ngành khác.

Hiện nay, QH tiếp tục rà soát hệ thống pháp luật về KHCN để bổ sung, hoàn thiện phù hợp với các chế định của Hiến pháp 2013 là: phát triển KHCN là quốc sách hàng đầu, giữ vai trò then chốt trong sự nghiệp phát triển KT- XH đất nước. Nhà nước ưu tiên đầu tư và khuyến khích tổ chức, cá nhân đầu tư, phát triển, chuyển giao ứng dụng có hiệu quả thành tựu KHCN; bảo đảm quyền nghiên cứu KHCN; bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ; tạo điều kiện để mọi người tham gia và được thụ hưởng lợi ích từ các hoạt động KHCN, qua đó, tạo khuôn khổ pháp lý cơ bản cho phát triển KHCN.

Chính phủ, các cơ quan của Chính phủ đã ban hành hàng loạt các nghị định, thông tư và các văn bản hướng dẫn. Riêng trong năm 2014, để thực hiện và triển khai Luật KHCN, Chính phủ đã ban hành 8 nghị định, 52 quyết định của Thủ tướng và thông tư hướng dẫn, trong đó có các văn bản hướng vào việc giải quyết các nút thắt trong cơ chế hoạt động của KHCN như Nghị định về đầu tư và cơ chế tài chính đối với hoạt động KHCN; Nghị định về sử dụng, trọng dụng cá nhân hoạt động KHCN; Nghị định Thu hút cá nhân hoạt động KHCN là người Việt Nam ở nước ngoài và chuyên gia nước ngoài tham gia hoạt động KHCN tại Việt nam; Thông tư liên tịch hướng dẫn xây dựng dự toán, quản lý, sử dụng và quyết toán kinh phí thực hiện nhiệm vụ thường xuyên theo chức năng của tổ chức KHCN công lập...

Nhật Minh, Lạng Sơn: Xây dựng chính sách pháp luật cho phát triển KHCN đã có bước tiến nhưng hiện chính sách pháp luật KHCN thực sự đi vào cuộc sống còn nhiều khó khăn. Xin Ông cho biết vai trò của cơ quan giám sát thực thi chính sách pháp luật trong quá trình này?

Phó chủ nhiệm Lê Bộ Lĩnh: Chúng tôi đã quan tâm đến việc giám sát trên hai khía cạnh. Một là việc ban hành các văn bản dưới luật có bảo đảm tính phù hợp, tính kịp thời và tính khả thi hay không. Hai là, việc triển khai trên thực tế chính sách pháp luật về KHCN được thực hiện như thế nào, những khó khăn, vướng mắc là gì, từ đó đưa ra các kiến nghị, hoàn thiện khuôn khổ pháp luật nếu việc thực hiện bị trở ngại bởi khuôn khổ pháp lý và kiến nghị đối với các cơ quan thi hành nếu nguyên nhân vướng mắc thuộc về quá trình tổ chức thực hiện. Các hoạt động giám sát này được thực hiện thường xuyên hoặc theo chuyên đề.

Gần đây, chúng tôi đã thực hiện giám sát tình hình thực hiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các tổ chức KHCN công lập và hiện đang tiến hành giám sát việc thực hiện phân bổ và sử dụng ngân sách nhà nước cho KHCN giai đoạn 2011- 2015. Kết quả và kiến nghị giám sát góp phần thúc đẩy việc thực hiện nghiêm túc và có hiệu quả chính sách pháp luật về KHCN.

ĐBND: Bạn đọc thân mến! Trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, KHCN luôn đóng vai trò động lực then chốt trong phát triển KT- XH và bảo vệ Tổ quốc. Với chủ đề: Sách Khoa học và Công nghệ Việt Nam 2014 với việc hoạch định chính sách kinh tế- xã hội, buổi giao lưu cung cấp nhiều thông tin mới về đường lối, chủ trương, chính sách của Nhà nước về KHCN, những cải cách về chính sách phát triển KHCN, tiềm lực, thành tựu KHCN…

Tại cuộc giao lưu này, Báo Đại biểu nhân dân cũng đã nhận được rất nhiều câu hỏi của bạn đọc gửi tới 4 vị khách mời quan tâm đến chính sách KHCN nước nhà cũng như mong muốn, kỳ vọng ở Sách KH và CN Việt nam 2014 cung cấp cái nhìn tổng thể về KHCN, giúp các chính sách về KHCN đi vào thực tiễn cuộc sống, gần công chúng hơn. Tuy nhiên, do thời gian dành cho giao lưu trực tuyến có giới hạn, Báo ĐBND xin trân trọng cám ơn bạn đọc đã quan tâm, gửi câu hỏi giao lưu. Xin hẹn bạn đọc vào lần giao lưu tiếp theo.

Phó chủ nhiệm Lê Bộ Lĩnh: Thay mặt các khách mời, chân thành cảm ơn bạn đọc của Báo ĐBND.

ĐBND