Đường thủy nội địa tiếp tục đưa ra nhiều giải pháp thúc đẩy sự phát triển

- Thứ Năm, 21/11/2019, 16:04 - Chia sẻ
Hiện nay, cả nước có 3.551 sông, kênh... với tổng chiều dài 80.577km, nối với biển thông qua 124 cửa sông, trong đó có khoảng 42.000km sông, kênh có khả năng khai thác vận tải. Cùng với đó là hơn 3.260km bờ biển, hàng trăm kilomet tuyến nối từ bờ ra đảo, nối các đảo trong vùng nội thủy đã và sẽ tổ chức quản lý, khai thác vận tải thủy nội địa.

Đường thủy nội địa tiếp tục đưa ra nhiều giải pháp thúc đẩy sự phát triển

Trong giai đoạn 2011 - 2018, khối lượng vận tải hàng hóa của đường thủy nội địa đạt tốc độ tăng trưởng 9,23%/năm; thị phần khối lượng vận tải đạt 17,63%; khối lượng luân chuyển hàng hóa đạt 8,73%. Riêng trong năm 2018, thị phần khối lượng luân chuyển hàng hóa đường thủy nội địa chiếm 19,93% toàn Ngành.

Nếu xét theo chỉ tiêu thống kê tổng hợp cả nước thì thị phần luân chuyển của vận tải đường thủy nội địa là 19,93%, thấp hơn đáng kể so với 27,22% là thị phần đảm nhận luân chuyển của vận tải đường bộ. Tuy nhiên, nếu chỉ so sánh tại các vùng có vận tải đường thủy nội địa phát triển như đồng bằng sông Hồng, Đông Nam bộ và đồng bằng sông Cửu Long thì thị phần đảm nhận luân chuyển của vận tải đường thủy nội địa cao hơn vận tải đường bộ khá nhiều.

Ngân hàng Thế giới (WB) năm 2019, vận tải đường thủy nội địa của Việt Nam có tỷ lệ đảm nhận vận chuyển hàng hóa nội địa cao hơn nhiều so với Trung Quốc, Hoa Kỳ và EU (trừ Hà Lan). WB cũng đánh giá vận tải đường thủy nội địa của Việt Nam đang hoạt động tốt với các dấu hiệu tăng trưởng và chuyển biến đáng khích lệ.

Cụ thể, khối lượng vận chuyển hàng hóa trên đường thủy nội địa so với đường bộ ở khu vực đồng bằng sông Hồng chiếm 27,8%, khu vực Đông Nam bộ chiếm 14%, khu vực đồng bằng sông Cửu Long chiếm 69,7%. Khối lượng luân chuyển hàng hóa của đường thủy nội địa so với đường bộ ở khu vực đồng bằng sông Hồng chiếm 69,7%; khu vực Đông Nam bộ chiếm 56,8%, khu vực đồng bằng sông Cửu Long chiếm 73,0%.

Theo Cục Đường thủy nội địa Việt Nam, hiện nay đường thủy nội địa vẫn chưa khai thác hết tiềm năng vốn có bởi nhiều tồn tại, hạn chế. Nổi bật trong đó là vận tải container tuy có hiệu quả rất cao nhưng chưa được nhiều doanh nghiệp vận tải thủy tham gia thực hiện, đặc biệt là tại khu vực phía Bắc. Đồng thời, việc kết nối các phương thức vận tải chưa thuận lợi, thiếu đồng đều gây ảnh hưởng lớn đến vận chuyển hàng hóa của các doanh nghiệp. Thêm vào đó, hạ tầng cảng, bến hiện thiếu đầu tư, nâng cấp hoặc có quy mô chưa tương xứng cũng như phân bổ chưa tập trung...

Để tiếp đà phát triển, trong thời gian tới Cục Đường thủy nội địa Việt Nam đã đưa ra nhiều giải pháp thúc đẩy sự phát triển, trong đó có việc rà soát các quy định Quy tắc giao thông và tín hiệu của phương tiện để sửa đổi, bổ sung các quy định chưa phù hợp với Quy tắc phòng ngừa đâm va tàu thuyền trên biển (COLREG 72) như: Quy tắc hành trình và điều động; đèn và các dấu hiệu; vị trí, đặc tính, chủng loại, yêu cầu về kỹ thuật... tín hiệu âm thanh và ánh sáng.

Cùng với đó, Cục Đường thủy nội địa Việt Nam sẽ tiến hành rà soát các quy định về phòng ngừa ô nhiễm môi trường của phương tiện VR-SB khi hoạt động trên tuyến ven biển; sửa đổi, bổ sung những quy định còn thiếu, chưa phù hợp với Công ước Quốc tế về ngăn ngừa ô nhiễm do tàu gây ra (Công ước MARPOL) mà Việt Nam là thành viên; quy định lại đơn vị thực hiện nhiệm vụ về điều tra tai nạn đối với phương tiện VR-SB xảy ra trên tuyến ven biển; quy định đơn vị đầu mối xây dựng hệ thống dữ liệu điện tử bao gồm các thông tin về phương tiện và thuyền viên để chia sẻ dữ liệu giữa các đơn vị và phối hợp kiểm soát hoạt động; tăng cường công tác kiểm tra, giám sát điều kiện an toàn kỹ thuật và thuyền viên làm việc trên phương tiện VR-SB.

Bảo Ngân