Doanh nghiệp trước ngưỡng cửa chuyển đổi số

“Dò đá qua sông” đến bao giờ?

- Thứ Sáu, 19/07/2019, 07:43 - Chia sẻ
Tại hội thảo “Doanh nghiệp Việt Nam trước ngưỡng cửa chuyển đổi số” do Viện Kinh tế Việt Nam tổ chức ngày 18.7, PGS. TS. Trần Đình Thiên cho rằng phần lớn doanh nghiệp Việt Nam vẫn ở vị trí thứ yếu trong câu chuyện “ăn chia” miếng bánh doanh thu kinh tế số ngay tại thị trường trong nước. Theo ông cho đến nay, Việt Nam vẫn ở đẳng cấp công nghiệp thấp nhất của thế giới và nếu chúng ta cứ “dò đá qua sông” mãi thì sẽ không đến đích được.

“Dò” mãi sẽ không đến đích

Với sự hoàn thiện dần của hạ tầng số, Chính phủ điện tử, khung khổ pháp lý và sự hình thành xã hội số, kinh tế số đã rõ nét và tăng tốc tại Việt Nam. Tại Việt Nam, nhiều doanh nghiệp như Viettel, FPT, CMC, Vingroup, Thaco, VNG… đã khẳng định hiệu quả trong thời gian ngắn khi chuyển đổi số. Khảo sát của Cameron và cộng sự cho thấy, có tới 85% doanh nghiệp công nghiệp chế tác và 70% doanh nghiệp nông nghiệp ứng dụng công nghệ thông tin trong quản trị, quản lý khách hàng. Hàng trăm nghìn doanh nghiệp vừa và nhỏ, hàng chục nghìn doanh nhân trẻ đang khởi nghiệp sáng tạo. Tuy nhiên, bên cạnh những tín hiệu khả quan với nhiều doanh nghiệp tiên phong thì ở chiều ngược lại, phần lớn doanh nghiệp Việt Nam vẫn ở vị trí thứ yếu trong câu chuyện “ăn chia” miếng bánh doanh thu kinh tế số ngay tại thị trường trong nước.


Toàn cảnh hội thảo

Hiện nay, Việt Nam có gần 700.000 doanh nghiệp tư nhân. Số doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới sáng tạo tăng gấp đôi, từ 1.800 doanh nghiệp năm 2016 lên khoảng 4.000 vào năm 2018. Nhưng về tổng thể, khu vực doanh nghiệp tư nhân nhỏ và vừa chiếm phần rất lớn. PGS.TS. Trần Đình Thiên, thành viên Tổ tư vấn kinh tế của Thủ tướng nhận định, mục tiêu có 1 triệu doanh nghiệp đăng ký vào năm 2020 có thể đạt hoặc không nhưng vấn đề then chốt là doanh nghiệp Việt Nam phải thực sự lớn và trở thành động lực chủ yếu cho phát triển kinh tế đất nước. Xu hướng số hóa là tất yếu, Việt Nam đang làm nhưng còn rất yếu cũng là vì chúng ta xuất phát điểm thấp, đi sau. Cơ sở cho phát triển kinh tế số như nguồn nhân lực, hạ tầng, tổ chức bộ máy và tầm nhìn cũng chưa rõ.

PGS.TS. Trần Đình Thiên cho rằng, Việt Nam đã có ít nhất 2 lần nhận thức được câu chuyện phải tiến vào khoa học kỹ thuật ở trình độ cao để đuổi kịp thế giới, nhưng cả 2 lần cũng mới đề ra định hướng, chủ trương mà không có chiến lược thực thi, không triển khai thực thi được. Do vậy, đến nay Việt Nam vẫn ở đẳng cấp công nghiệp thấp nhất của thế giới. “Chúng ta cứ “dò đá qua sông” đến bao giờ, chủ nghĩa kinh nghiệm lâu quá và coi đấy là sự thận trọng, nhưng nếu cứ “dò” mãi thì không bao giờ đến đích”, ông Thiên nói. Tất nhiên vẫn cần phải có phần “dò” nhưng nên ít thôi và phải rút ngắn càng sớm càng tốt. Cách thức để tiến lên bằng những hiểu biết lý luận, hiểu biết hệ thống và hiểu biết ở tầm cao của thời đại là cái chúng ta cần phải nỗ lực làm. Bởi, trí tuệ người Việt Nam có thể tiếp cận nền kinh tế số.

Hành trình các doanh nghiệp Việt chuyển đổi số, Phó Tổng giám đốc phụ trách Bộ phận Dịch vụ tài chính ngân hàng EY Việt Nam Nguyễn Thuỳ Dương cho rằng có 3 thách thức rất lớn. Nếu có hạ tầng tốt, các doanh nghiệp sẽ đi rất nhanh. “Giống như đi trên 1 con đường, dù xe có tốt mà đường gồ ghề, tắc nghẽn thì cũng không đi nhanh được”. Hai là khó khăn về nguồn lực. Các doanh nghiệp nhỏ và vừa hiện nay vẫn loay hoay với cơm áo gạo tiền. Cho nên, việc đầu tư vào công nghệ để thay đổi bản thân so với việc vận hành công nghệ cũ mà vẫn kiếm ra tiền là điều đáng cân nhắc. Nhưng nếu các doanh nghiệp vượt qua được mối lo và có sự chuẩn bị tốt về tài chính thì doanh nghiệp đó sẽ thắng. Thách thức thứ ba là quyết tâm của người làm chủ. Với các doanh nghiệp vừa và nhỏ, hầu hết đều do mồ hôi công sức của một người bỏ ra. Để họ có thể đưa ra quyết định đầu tư thì phải thật sự quyết tâm, rồi từ đó mới lan toả ra toàn bộ công ty. Theo bà Dương, thay vì cứ nghĩ ra những ý tưởng thiếu thực tiễn thì các công ty khởi nghiệp nên cho ra những sáng kiến đáp ứng nhu cầu thực tiễn của doanh nghiệp.

Nghĩ lớn, nhưng hãy bắt đầu nhỏ

Theo GS. Hồ Tú Bảo, Viện Khoa học công nghệ tiên tiến Nhật Bản, chuyển đổi số là sự sống còn của doanh nghiệp. Do vậy, mỗi doanh nghiệp phải xác định lộ trình để chuyển đổi, xây dựng năng lực số bằng hạ tầng, trang thiết bị, nhân lực, văn hóa... Yếu tố thành công không phải ở công nghệ mà phải bắt nguồn từ nhận thức và chiến lược của doanh nghiệp, sẵn sàng về phương diện công nghệ. Có một thực tế là, hiện nay doanh nghiệp “nghĩ quá lớn”, rồi cho ra những dự án quá lớn, kéo dài quá lâu và tốn nhiều kinh phí. Trong khi đó, công nghệ luôn thay đổi, và thay đổi nhanh hơn những gì mà chúng ta dự tính. Do vậy, cần nghĩ rằng chuyển đổi số như một công cụ hay một quy trình để bắt đầu đầu tư. Chúng ta có thể nghĩ lớn nhưng hãy bắt đầu nhỏ.

Bản chất của cuộc cách mạng công nghiệp là thay đổi phương thức sản xuất. Sự thay đổi này mang lại tiềm năng to lớn nhưng không phải doanh nghiệp nào cũng nhận thức được đầy đủ các cách thức để chuyển đổi số, thay đổi phương thức sản xuất thành công. Vì vậy, đối tượng cần phải nhận thức rõ nhất điều này là các giám đốc điều hành của doanh nghiệp. Bên cạnh đó, có nhiều yếu tố quyết định sự thành công trong quá trình chuyển đổi số nhưng để triển khai ứng dụng được các công nghệ mới, con người - nguồn nhân lực số được coi là một trong những yếu tố then chốt nhất. Trong cuộc cách mạng số, người thắng cuộc sẽ là người làm chủ nguồn dữ liệu lớn và có nguồn nhân lực số tốt. Theo GS. Hồ Tú Bảo, đào tạo nhân lực là việc làm bắt buộc và rất cấp thiết. Đây là một trong những yếu tố kiên quyết để theo kịp môi trường chuyển đổi số cũng như cuộc Cách mạng Công nghiệp 4.0.

Bên cạnh đó, để kinh tế số, kinh tế chia sẻ vận dụng hiệu quả ở Việt Nam, TS. Nguyễn Mạnh Hải, Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương cho rằng, các cơ quan quản lý nhà nước cần có cơ chế, chính sách giảm thiểu rủi ro cho các bên trong hoạt động kinh tế chia sẻ, bao gồm cảnh báo sớm cho người cung cấp dịch vụ.  Đồng thời, nâng cao năng lực hiểu biết và sử dụng dịch vụ kinh tế số, pháp luật về hợp đồng số cho người sử dụng dịch vụ; bảo đảm an toàn lao động và an toàn trong thanh toán các hợp đồng điện tử. Đối với các cơ quan chức năng, cần tăng cường phối hợp, chia sẻ thông tin và dữ liệu với nhau trong điều hành quản lý nhà nước. Xây dựng cơ chế chia sẻ thông tin và dữ liệu giữa các bộ, ngành với chính quyền, doanh nghiệp, hiệp hội ngành nghề. Từ đó, tạo điều kiện thuận lợi và ổn định cho doanh nghiệp đổi mới sáng tạo, tiếp cận tài chính, khuyến khích cạnh tranh, hỗ trợ họ thực hiện.

Bài và ảnh: Tuệ Anh