Các quyết định bồi thường tại Dự án KCN Sơn Mỹ I thiếu dẫn chiếu quyết định thu hồi đất của tỉnh Bình Thuận?
Hàng loạt quyết định của UBND huyện Hàm Tân liên quan đến việc chi trả tiền bồi thường cho các đơn vị, tổ chức có đất bị thu hồi tại Dự án KCN Sơn Mỹ I đang thiếu dẫn chiếu quyết định thu hồi đất của UBND tỉnh Bình Thuận?

Theo tài liệu, năm 2001 và 2004, Công ty TNHH TM Đại Thanh (Công ty Đại Thanh) được UBND tỉnh Bình Thuận cho thuê tổng cộng 566.000m2 đất tại xã Sơn Mỹ để thực hiện 2 dự án: Dự án nuôi tôm (300.000m2, thời hạn thuê 20 năm) và Dự án đầu tư trồng rừng kết hợp nuôi thủy sản (266.000m2, thời hạn cho thuê đất 50 năm). Trong quá trình triển khai thực hiện dự án, Công ty Đại Thanh còn thỏa thuận, nhận chuyển nhượng đất từ các hộ gia đình, cá nhân, nâng tổng diện tích đất đã và đang quản lý, sử dụng hơn 672.400m2.
Ngày 22/12/2011, UBND tỉnh Bình Thuận ban hành Quyết định số 2766/QĐ-UBND thu hồi 615.472m2 đất của Công ty Đại Thanh để thực hiện Dự án khu công nghiệp (KCN) Sơn Mỹ I (589.934m2 làm KCN và 25.538 giao UBND xã Sơn Mỹ quản lý).
Liên quan đến chi trả tiền bồi thường cho Công ty Đại Thanh, mới đây ngày 20/5/2025, Trung tâm Phát triển quỹ đất (PTQĐ) huyện Hàm Tân có Văn bản số 63/TB-PTQĐ thông báo gửi số tiền hơn 5,2 tỷ đồng đã được UBND huyện Hàm Tân phê duyệt bồi thường, hỗ trợ cho Công ty Đại Thanh.

Theo văn bản trên, số tiền hơn 5,2 tỷ đồng được căn cứ theo 7 quyết định của UBND huyện Hàm Tân về chi trả tiền bồi thường cho Công ty Đại Thanh: Quyết định 2793/QĐ-UBND ngày 9/10/2012, Quyết định số 650/QĐ-UBND ngày 11/4/2025, Quyết định số 2097/QĐ-UBND ngày 5/8/2014, Quyết định số 769/QĐ-UBND ngày 21/4/2025, Quyết định số 2112/QĐ-UBND ngày 5/8/2014, Quyết định số 654/QĐ-UBND ngày 11/4/2025, Quyết định số 726/QĐ-UBND ngày 16/4/2025.
Đáng chú ý, tại các quyết định trên do UBND huyện Hàm Tân ban hành nhưng đều không dẫn chiếu trực tiếp quyết định thu hồi đất của UBND tỉnh Bình Thuận để làm căn cứ chi trả tiền bồi thường, hỗ trợ cho Công ty Đại Thanh. Chính điều này đã khiến cho diện tích đất bị thu hồi của Công ty Đại Thanh và trong các quyết định phê duyệt phương án bồi thường của UBND huyện Hàm Tân bị “vênh” nhau hoặc không được đề cập; số tiền bồi thường liên tục bị điều chỉnh theo hướng càng điều chỉnh… càng giảm.
Cụ thể: Quyết định số 2793/QĐ-UBND ngày 9/10/2012, tổng số tiền chi trả cho Công ty Đại Thanh là 9,8 tỷ đồng (bồi thường tài sản (BTTS) hơn 3,7 tỷ, các khoản hỗ trợ hơn 5,8 tỷ, giá trị thu hồi sau khi đã trừ 10% giá trị tài sản hơn 256 triệu đồng). Số tiền bồi thường 615.472m2 là 0 đồng.

Quyết định số 2097/QĐ-UBND ngày 5/8/2014 bồi thường cho Công ty Đại Thanh số tiền hơn 1,5 tỷ đồng (BTTS hơn 357 triệu đồng, các khoản hỗ trợ hơn 1,1 tỷ đồng; khấu trừ giá trị thu hồi tài sản (10%) hơn 214 triệu đồng. Quyết định này cũng điều chỉnh nội dung tại Điều 2 của Quyết định số 2793/QĐ-UBND “giảm số tiền tại mục giá trị thu hồi sau khi đã trừ 10% giá trị tài sản với số tiền hơn 256 triệu đồng và tăng số tiền bồi thường về tài sản từ hơn 3,7 tỷ đồng thành hơn 3,9 tỷ đồng (do điều chỉnh theo khoản 1.2, Điều 1 Quyết định 1576/QĐ-UBND ngày 30/6/2014 của Chủ tịch UBND huyện Hàm Tân).
Quyết định 2112/QĐ-UBND ngày 5/8/2014, số tiền bồi thường, hỗ trợ cho Công ty Đại Thanh là hơn 2,2 tỷ đồng (BTTS hơn 314 triệu đồng; các khoản hỗ trợ hơn 1,9 tỷ đồng).
Quyết định số 650/QĐ-UBND ngày 11/4/2025 đã điều chỉnh Quyết định số 2793/QĐ-UBND (nêu trên). Tổng số tiền bồi thường là hơn 3,9 tỷ đồng (BTTS: hơn 3,9 tỷ đồng; các khoản hỗ trợ 0 đồng).
Quyết định số 654/QĐ-UBND ngày 11/4/2025, UBND huyện Hàm Tân điều chỉnh Quyết định 2112/QĐ-UBND (nêu trên). Theo đó, tổng số tiền bồi thường, hỗ trợ từ hơn 2,2 tỷ đồng điều chỉnh thành hơn 314 triệu đồng (chỉ BTTS, các khoản hỗ trợ: 0 đồng).
Quyết định 726/QĐ-UBND ngày 16/4/2025: Tổng số tiền bồi thường, hỗ trợ hơn 835 triệu đồng (tiền bồi thường chi phí đầu tư vào đất còn lại: 0 đồng; BTTS: hơn 772 triệu đồng; chi phí di chuyển tài sản: 20 triệu đồng; tiền hỗ trợ: 43,2 triệu đồng).
Quyết định số 769/QĐ-UBND ngày 21/4/2025, điều chỉnh Quyết định số 2097/QĐ-UBND (nêu trên). Theo đó, số tiền bồi thường từ hơn 1,5 tỷ đồng chỉ còn hơn 357 triệu đồng (chỉ BTTS); khấu trừ giá trị thu hồi tài sản (10%) hơn 214 triệu đồng.

Tại các quyết định điều chỉnh, UBND huyện Hàm Tân nêu lý do điều chỉnh: Giảm kinh phí hỗ trợ công đào ao đã phê duyệt để thực hiện chính sách bồi thường chi phí đầu tư vào đất còn lại cho đúng theo quy định tại khoản 3 Điều 9 Nghị định số 197/2004/NĐ-CP ngày 3/12/2004 của Chính phủ, khoản 2 Điều 5 Thông tư số 14/2009/TT-BTNMT ngày 1/10/2009 của Bộ Tài nguyên và Môi trường.
Theo Công ty Đại Thanh, vì các quyết định chi trả tiền bồi thường, hỗ trợ do UBND huyện Hàm Tân ban hành không dẫn chiếu quyết định thu hồi đất của UBDN tỉnh nên huyện Hàm Tân đã "quên" luôn việc bồi thường về đất, do không thống nhất diện tích đất thu hồi. Từ đó, việc phê duyệt các phương án bồi thường tài sản trên đất cũng liên tục bị "xáo trộn", thay đổi suốt hơn 10 năm qua.
Cần kiểm đếm, kiểm kê thực địa

Công ty Đại Thanh ý kiến: Tại các quyết định chi trả tiền bồi thường của UBND huyện Hàm Tân: 769/QĐ-UBND, 726/QĐ-UBND, 654/QĐ-UBND, 650/QĐ-UBND, 2097/QĐ-UBND, 2112/QĐ-UBND, 2793/QĐ-UBND (nêu trên), UBND huyện Hàm Tân không bồi thường chi phí đầu tư vào đất còn lại cho Công ty Đại Thanh là không đúng quy định.
Bởi, theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 107 Luật Đất đai 2024, đối với trường hợp thu hồi đất được Nhà nước cho thuê trả tiền hàng năm thì không được bồi thường về đất nhưng sẽ được bồi thường chi phí đầu tư vào đất còn lại khi Nhà nước thu hồi đất. Để thực hiện dự án nuôi tôm, trồng rừng kết hợp nuôi hải sản, Công ty Đại Thanh đã đầu tư vào đất gồm: phát quang, san nền, hạ cos, đào ao… Do đó, đối với phần diện tích mà Công ty Đại Thanh thuê trả tiền đất hàng năm là hơn 424.000m2 đủ điều kiện để được bồi thường chi phí đầu tư vào đất còn lại. Bên cạnh đó là các chi phí thực tế đã đầu tư vào đất như: khối lượng khảo sát nghiên cứu khả thi, tư vấn khảo sát và thiết kế, quản lý dự án…
Cũng theo Công ty Đại Thanh, tại điểm b khoản 2 và khoản 5 Điều 17 Nghị định 88/2024/NĐ-CP thì “người có đất thu hồi không có hồ sơ, chứng từ chứng minh thì UBND cấp tỉnh căn cứ tình hình thực tế tại địa phương quy định việc xác định chi phí đầu tư vào đất còn lại”.

Còn tại Điều 7 Quy định về bồi thường, hỗ trợ tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn Bình Thuận kèm theo Quyết định số 43/2024/QĐ-UBND ngày 22/10/2024 của UBND tỉnh Bình Thuận thì “đơn vị thực hiện bồi thường có trách nhiệm chủ trì, phối hợp với các đơn vị liên quan thực hiện kiểm đếm, xác định và tính toán khối lượng chi phí đầu tư vào đất còn lại… Trường hợp gặp khó khăn, thiếu cơ sở trong việc xác định giá bồi thường thì giao cho các cơ quan chuyên môn của huyện kiểm tra, xác định chi phí thực tế đã đầu tư vào đất hoặc đơn vị thực hiện bồi thường thuê tổ chức có chức năng tư vấn để xác định số tiền chi phí thực tế đã đầu tư vào đất…”.
“Việc đầu tư vào đất là có thật, cụ thể gắn với hiện trạng sử dụng đất. Do đó căn cứ các quy định nêu trên cho thấy cơ quan thu hồi đất phải có trách nhiệm xem xét, đánh giá, thẩm định để xác định mức bồi thường chi phí đầu tư vào đất trên cơ sở thực tế sử dụng và kết quả kiểm kê tại hiện trường theo đúng quy định pháp luật. Đồng thời, UBND tỉnh Bình Thuận phải căn cứ tình hình thực tế tại địa phương để xác định chi phí đầu tư vào đất còn lại để trả cho Công ty Đại Thanh”, đại diện Công ty Đại Thanh ý kiến.
Cũng theo Công ty Đại Thanh, đối với hệ thống điện trung thế, trạm biến áp, điện hạ thế và các tài sản khác… các hạng mục này đã được nghiệm thu, cấp điện và đưa vào sử dụng ổn định nhiều năm nay, là tài sản gắn liền với mục đích đầu tư được chấp thuận theo chủ trương của UBND tỉnh Bình Thuận. Tuy nhiên, UBND huyện Hàm Tân không có phương án bồi thường giá trị hệ thống điện mà chỉ hỗ trợ chi phí di dời. Điều này là không phù hợp.

Trong khi đó, tại Điều 102 và 104 Luật Đất đi 2024 quy định, người sử dụng đất có tài sản hợp pháp gắn liền với đất bị thu hồi mà không thể di chuyển hoặc di chuyển làm mất giá trị sử dụng thì được bồi thường theo giá trị thực tế còn lại tại thời điểm thu hồi.
Một thực tế khác, Công ty Đại Thanh bị thu hồi đất trước thời hạn nhưng không được bố trí tái định cư, không được cấp vị trí đất để sản xuất thay thế, dẫn đến mất toàn bộ cơ sở sản xuất và không thể tiếp tục triển khai hoạt động nuôi tôm. Tuy nhiên UBND huyện Hàm Tân chỉ hỗ trợ 43,2 triệu đồng (hỗ trợ đối với giếng khoan tay) mà không có các khoản hỗ trợ về trợ cấp ngừng việc cho người lao động, chi phí ổn định tái sản xuất kinh doanh là không đúng với các quy định hiện hành, gây thiệt hại nghiêm trọng đến hoạt động kinh doanh và quyền lợi chính đáng của Công ty Đại Thanh.
Từ những căn cứ trên, Công ty Đại Thanh ý kiến: theo quy định tại khoản 3 Điều 3 Nghị định 88/2024/NĐ-CP quy định về hồ sơ thẩm định phương án bồi thường, hỗ trợ tái định cư, phải bao gồm: Văn bản kiểm đếm, thống kê, phân loại diện tích đất thu hồi và tài sản; trích lục bản đồ địa chính hoặc trích đo địa chính bị thu hồi; văn bản xác nhận nguồn gốc thửa đất bị thu hồi… Ngoài ra, tại khoản 4 Nghị định trên còn quy định phải thực hiện “điều tra, khảo sát ghi nhận hiện trạng, đo đạc, kiểm điểm, thống kê, phân loại diện tích đất và xác định nguồn gốc đất và tài sản gắn liền với đất thu hồi…”.
Tuy nhiên, từ thời điểm ban hành quyết định thu hồi đất (năm 2011) và tiếp đó huyện Hàm Tân ban hành phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư….đã nhiều lần Công ty Đại Thanh có ý kiến nhưng đến nay Công ty Đại Thanh vẫn chưa nhận được hoặc được tiếp cận các hồ sơ như: biên bản xác định ranh giới, mốc giới, diện tích thửa đất thu hồi (kèm bản đồ hiện trạng có xác nhận của các bên liên quan); biên bản xác minh nguồn gốc đất; biên bản kiểm kê, thống kê tài sản và xác định khối lượng làm cơ sở lập phương án bồi thường…
Công ty Đại Thanh đề nghị áp dụng Luật Đất đai 2024 cho việc thu hồi đất và lập phương án bồi thường cho công ty vì hiện đang thực hiện thu hồi đất trong năm 2025. Quyết định thu hồi đất đã ban hành không đúng diện tích thu hồi đất thực tế (diện tích thu hồi lớn hơn diện tích cho thuê, thu hồi luôn cả phần đất doanh nghiệp tự bồi thường, nhận chuyển nhượng ngoài ranh). Do vậy, không còn phù hợp, đề nghị thực hiện điều chỉnh quyết định thu hồi đất để phù hợp với diện tích thực tế khi bị thu hồi đất!