Ban hành nhiều cơ chế, chính sách tạo động lực phát triển
Nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho đồng bào DTTS và miền núi là chủ trương xuyên suốt của Đảng và Nhà nước trong phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Theo đó, cùng với việc hoạch định chính sách chung cho cả nước, Đảng, Nhà nước luôn đặc biệt quan tâm xây dựng chính sách cho vùng DTTS và miền núi với chủ trương nhất quán phát triển về mọi mặt đối với vùng DTTS và miền núi, nhanh chóng thu hẹp khoảng cách phát triển so với mặt bằng chung của cả nước.
Để cụ thể hóa quan điểm, chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước về phát triển vùng DTTS và miền núi, trong những năm qua, tỉnh Thanh Hóa đã xây dựng nhiều chương trình, dự án, đề án, chính sách hỗ trợ đồng bào, từ đó đã giúp cho kinh tế - xã hội vùng đồng bào DTTS và miền núi trên địa bàn tỉnh đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Điển hình, giai đoạn 2011 - 2023, tỉnh đã ban hành hàng loạt cơ chế, chính sách riêng để hỗ trợ khu vực miền núi phát triển, như: Đề án xây dựng điểm điển hình giảm nghèo nhanh và bền vững tại các huyện nghèo tỉnh Thanh Hóa, giai đoạn 2016 - 2020; Đề án thực hiện chính sách đặc thù hỗ trợ phát triển kinh tế - xã hội vùng DTTS và miền núi tỉnh Thanh Hóa giai đoạn 2018 - 2020; Đề án phát triển cây trồng, vật nuôi có lợi thế phát triển trên địa bàn các huyện miền núi tỉnh Thanh Hóa đến năm 2020; Đề án ổn định đời sống và phát triển kinh tế - xã hội đồng bào Khơ Mú, tỉnh Thanh Hóa đến năm 2020; Nghị quyết số 11-NQ/TU ngày 29.9.2022 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về xây dựng và phát triển huyện Mường Lát đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045; Chương trình phát triển kinh tế - xã hội khu vực miền núi Thanh Hóa giai đoạn 2021 - 2025;...
Từ thực tiễn cho thấy, những chính sách riêng của tỉnh là tiền đề quan trọng để các huyện miền núi xây dựng kế hoạch phát triển phù hợp với điều kiện của từng địa phương. Nhiều huyện đã tập trung xây dựng các mô hình kinh tế hiệu quả cho người dân thông qua các chính sách hỗ trợ sản xuất, phát triển nông, lâm nghiệp. Đơn cử như huyện Mường Lát, trong thời gian qua, địa phương đã xây dựng và hình thành được 43 mô hình, gồm 13 mô hình cây trồng, 17 mô hình vật nuôi, 1 mô hình phát triển dược liệu và 12 mô hình sản phẩm lợi thế. Nổi bật là trồng đào lai quy mô 17,3 ha; trồng mận hậu quy mô 1,6 ha.
Tương tự, tại huyện Lang Chánh có 35 mô hình, trong đó có 17 mô hình cây trồng, 15 mô hình vật nuôi, 3 mô hình phát triển dược liệu. Nổi bật là mô hình trồng rừng thâm canh cây vầu đắng, quy mô 46 ha, lợi nhuận 670 triệu đồng/năm; mô hình trồng hoa thiên lý, quy mô 1 ha, lợi nhuận bình quân 120 triệu đồng/năm; mô hình trồng nghệ cho thu nhập bình quân 170 triệu đồng/năm.
Tại huyện Quan Sơn, nhiều năm qua, cây vầu được xem là “cây vàng xanh” của người dân địa phương khi mang lại hiệu quả kinh tế cao, giúp người dân thoát nghèo. Nhận thức được vai trò quan trọng của cây vầu, chính quyền địa phương đã khuyến khích người dân nhân rộng diện tích trồng vầu, hỗ trợ chuyển giao kỹ thuật, khuyến khích các doanh nghiệp vào đầu tư sản xuất, tạo đầu ra cho sản phẩm từ vầu. Là một trong những hộ gia đình có diện tích trồng vầu lớn nhất xã Tam Lư (huyện Quan Sơn), ông Vi Văn Piên cho biết: Tổng diện tích trồng vầu của gia đình ông khoảng 5ha, trong đó có hơn 3ha vầu mới trồng, sinh trưởng, phát triển tốt và gần 2ha vầu đang cho khai thác. Đối với diện tích vầu đã cho khai thác, gia đình ông Piên thu được từ 40 - 50 triệu đồng/năm. Ngoài ra, với số lượng hơn 10.000 gốc vầu ươm, ông Piên thu được khoảng từ 140 - 150 triệu đồng/năm từ việc bán giống vầu cho bà con trong vùng. Nhờ đó, gia đình ông khấm khá, có cuộc sống kinh tế ổn định, có khả năng hỗ trợ giống và kỹ thuật cho các hộ dân khác tại địa phương.
Ngoài các chính sách dân tộc của Trung ương, các chính sách riêng của tỉnh đã góp phần không nhỏ đẩy nhanh tiến độ xây dựng NTM trên địa bàn 11 huyện miền núi. Hiện nay, khu vực miền núi có 68 xã đạt chuẩn NTM, 8 xã đạt chuẩn NTM nâng cao, 1 xã đạt chuẩn NTM kiểu mẫu; bình quân đạt 13,83 tiêu chí/xã; có 122 sản phẩm OCOP đạt 3 sao trở lên. Chương trình NTM đã và đang đem lại diện mạo mới văn minh, hiện đại cho vùng đồng bào DTTS và miền núi Thanh Hóa.
Đột phá trong phát triển kinh tế - xã hội
Trong giai đoạn 2012 - 2025, tỉnh Thanh Hóa đã đã bố trí hơn 11 nghìn tỷ đồng cho Chương trình phát triển kinh tế - xã hội khu vực miền núi, trong đó vốn Trung ương là hơn 6,4 nghìn tỷ đồng, vốn ngân sách tỉnh là hơn 1,7 tỷ đồng, vốn ngân sách huyện, xã và các nguồn huy động khác là gần 3 tỷ đồng.
Để tạo ra bước đột phá trong phát triển kinh tế - xã hội cho 11 huyện miền núi, các sở, ban, ngành ở Thanh Hóa luôn xác định, phải phối hợp để xây dựng các chương trình, đề án, dự án về hạ tầng giao thông, thủy lợi, trường lớp học, cơ sở y tế, sắp xếp ổn định dân cư, xây dựng các mô hình khuyến nông, khuyến lâm...
Nhờ thực hiện đồng bộ các giải pháp và huy động tối đa các nguồn lực đã giúp khu vực miền núi xứ Thanh đạt được những kết quả nổi bật: Đến cuối năm 2023, tỷ lệ hộ nghèo ở 11 huyện miền núi còn 25.651 hộ (chiếm tỷ lệ 11,04%), giảm 4,15% so với cuối năm 2022; tỷ lệ hộ cận nghèo còn 32.551 hộ (chiếm tỷ lệ 14,01%), giảm 3,06% so với cuối năm 2022. Cuối năm 2023, hộ nghèo là người DTTS của tỉnh còn 23.541 hộ (chiếm tỷ lệ 14,75%), giảm 8.632 hộ (tương ứng giảm 5,11%) so với cuối năm 2022.
Đến nay, đã có 100% đường giao thông từ thôn, bản đến trung tâm xã được cứng hóa; tỷ lệ hộ gia đình sử dụng nước hợp vệ sinh ước đạt 93,6%; đã hoàn thành đầu tư hạ tầng cấp điện cho 23 thôn, bản của 6 huyện; hạ tầng mạng lưới viễn thông, truyền hình được mở rộng, có 2.904 trạm thu phát sóng và 363 trạm truy cập internet, đảm bảo phủ sóng, cung cấp dịch vụ viễn thông, internet, truyền hình đến 100% trung tâm các xã...
Từ những con số ấn tượng trên cho thấy những chính sách của tỉnh Thanh Hóa hỗ trợ vùng đồng bào DTTS và miền núi đã và đang phát huy hiệu quả, tạo điều kiện thuận lợi để đồng bào vươn lên giảm nghèo, nâng cao chất lượng cuộc sống. Điều này được minh chứng cụ thể qua thu nhập của người dân cũng như tốc độ tăng trưởng kinh tế - xã hội trên địa bàn. Cụ thể, nếu như thu nhập bình quân đầu người khu vực miền núi năm 2020 chỉ đạt 33,1 triệu đồng, cao gấp 3,31 lần so với năm 2012, thì đến năm 2023 đạt 41,33 triệu đồng, tăng 8,38 triệu đồng so với năm 2020; kinh tế toàn vùng liên tục tăng trưởng qua các năm, bình quân giai đoạn 2021-2023 tốc độ tăng giá trị sản xuất của 11 huyện miền núi đạt 5,95%...
Trưởng Ban Dân tộc tỉnh Thanh Hóa Mai Xuân Bình chia sẻ, nhờ thực hiện có hiệu quả các dự án, chính sách dân tộc, chương trình mục tiêu quốc gia...đến nay, diện mạo các bản làng, vùng DTTS và miền núi của tỉnh ngày càng đổi thay; đời sống vật chất, tinh thần của người dân được cải thiện và nâng lên đáng kể. Những kết quả đó là minh chứng rõ nét cho hiệu quả từ chính sách dân tộc của Đảng, Nhà nước nói chung và chính sách riêng, đặc thù của tỉnh. Ban Dân tộc sẽ tiếp tục thực hiện đồng bộ các giải pháp với phương châm “sáng tạo, linh hoạt” để các chính sách dân tộc ngày càng phát huy hiệu quả, tạo động lực phát triển mạnh mẽ cho các vùng khó khăn của tỉnh.