Nghị quyết 71-NQ/TW chính là "khoán 10" trong giáo dục đại học
Trao đổi với phóng viên Báo Đại biểu Nhân dân về việc Bộ Chính trị vừa ban hành Nghị quyết số 71-NQ/TW về đột phá phát triển giáo dục và đào tạo, GS.TSKH Nguyễn Đình Đức, Trường Đại học Công nghệ - Đại học Quốc gia Hà Nội, khẳng định: Nghị quyết 71-NQ/TW chính là "khoán 10", "khoán 100" trong giáo dục đại học.
Và, đích cuối cùng của Nghị quyết này, cũng là mong mỏi của những người thầy, là giáo dục Việt Nam sẽ phải thực sự là nền giáo dục thực chất “học thật - nhân tài thật”, đào tạo ra những con người “vừa hồng vừa chuyên”.
Nhiều điểm đổi mới mạnh dạn, quyết liệt, đáp ứng mong mỏi của toàn xã hội
- Tổng Bí thư Tô Lâm vừa ký ban hành Nghị quyết số 71-NQ/TW về đột phá phát triển giáo dục và đào tạo. Đây được coi là một “cột mốc chiến lược” cho giáo dục Việt Nam, kế thừa và phát triển từ Nghị quyết số 29-NQ/TW. Cá nhân ông đánh giá đâu là điểm mới đột phá nhất trong Nghị quyết lần này?
- Thứ nhất, điểm đột phá ấn tượng nhất trong Nghị quyết lần này là đột phá về tư duy, nhận thức và quyết tâm, quyết liệt thay đổi mạnh mẽ về thể chế trong giáo dục và đào tạo. Nghị quyết khẳng định giáo dục và đào tạo không chỉ là quốc sách quan trọng hàng đầu, mà còn là nhân tố quyết định tương lai, vận mệnh của dân tộc.

Chính sự nhận thức này là gốc rễ, nền tảng cho những thay đổi. Nghị quyết chỉ ra rất rõ, để giáo dục và đào tạo có sự phát triển đột phá trong kỷ nguyên mới, thì các luật, chính sách nhất định phải thay đổi theo. Đổi mới thể chế với tư duy theo hướng thay vì "quản lý hành chính", phải "kiến tạo", với những cơ chế, chính sách đặc thù, vượt trội để các nhà trường, cơ sở giáo dục và đào tạo có thể thu hút được mọi nguồn lực, cả hữu hình và vô hình cho sự phát triển, nâng cao chất lượng đào tạo, phục vụ sự tăng trưởng của nhà trường, hội nhập với trình độ và chuẩn mực quốc tế.
Từ Nghị quyết này có thể thấy, Đảng và Nhà nước ta dành sự quan tâm đặc biệt và kỳ vọng rất lớn lao cho giáo dục và đào tạo, đó là: đến 2035 phải có ít nhất 5 cơ sở giáo dục đại học có những lĩnh vực được xếp hạng top 100 thế giới; đến năm 2045 Việt Nam vào top 20 quốc gia có nền giáo dục công bằng, hiện đại nhất thế giới.
Tôi cũng đặc biệt ấn tượng, đồng tình và đánh giá rất cao chủ trương ưu tiên đầu tư cho giáo dục đại học thể hiện trong Nghị quyết của Bộ Chính trị lần này. Tri thức và các công nghệ cao xuất phát từ các nhà khoa học, từ các phòng thí nghiệm của các trường đại học, viện nghiên cứu. Do đó, giáo dục đại học có ý nghĩa rất quan trọng trong việc thúc đẩy thực hiện thành công Nghị quyết số 57-NQ/TW về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia. Nghị quyết 57-NQ/TW không thể thành công như mong đợi nếu giáo dục đại học Việt Nam không đổi mới và cất cánh.
Nghị quyết 71-NQ/TW khẳng định, bảo đảm quyền tự chủ đầy đủ và toàn diện cho các cơ sở giáo dục đại học, không phụ thuộc vào mức độ tự chủ tài chính.
Từng là người tham gia công tác chỉ đạo điều hành, lãnh đạo một trường đại học, tôi rất tâm đắc và đánh giá đây là chỉ đạo rất sáng suốt, quyết liệt, đúng và rất trúng với mong mỏi của các cơ sở giáo dục đại học. Những năm qua, tự chủ đại học như "luồng gió mới" đã làm "thay da đổi thịt" nhiều trường đại học, tuy nhiên cũng còn một số điểm nghẽn, hạn chế kìm hãm và ràng buộc.

Với chỉ đạo về tự chủ đại học như vậy, tôi tin tưởng các luật, chính sách sẽ được sửa đổi theo tinh thần Nghị quyết 71-NQ/TW và Nghị quyết này sẽ thực sự là "khoán 10" trong giáo dục đại học Việt Nam, đem lại những phát triển mạnh mẽ và đột phá cho giáo dục đại học. Nghị quyết này cũng sẽ thay đổi căn bản tư duy đầu tư tài chính cho giáo dục đại học: tới tầm và vượt trội, thiết thực chăm lo cho đội ngũ giảng viên và hỗ trợ tài chính, tạo cơ hội học tập cho mọi người.
Đặc biệt, Nghị quyết 71-NQ/TW cộng hưởng với Nghị quyết 57-NQ/TW, quyết liệt chỉ đạo xây dựng những mô hình đại học mới - đại học đổi mới sáng tạo, đại học công nghệ thế hệ mới, để trở thành nòng cốt và "đầu tàu" đổi mới, dẫn dắt hệ sinh thái đổi mới sáng tạo của Việt Nam.
Trong Nghị quyết, Bộ Chính trị cũng chỉ đạo khẩn trương thúc đẩy hội nhập quốc tế mạnh mẽ hơn nữa trong giáo dục, đưa tiếng Anh thành ngôn ngữ thứ 2 trong nhà trường, đồng thời đẩy mạnh chuyển đổi số và ứng dụng các công nghệ hiện đại, trí tuệ nhân tạo (AI) có đạo đức và trách nhiệm trong nền giáo dục hiện đại và văn minh. Đây là những điểm đổi mới rất mạnh dạn, quyết liệt với tầm nhìn xa trông rộng, đáp ứng mong mỏi của toàn xã hội.
- Một chỉ đạo rất mạnh mẽ trong Nghị quyết 71-NQ/TW là dành ít nhất 20% tổng chi ngân sách nhà nước cho giáo dục, cùng với các chế độ ưu đãi lớn cho đội ngũ nhà giáo. Theo ông, điều này sẽ tác động thế nào đến chất lượng nguồn nhân lực và sức hút của nghề giáo?
- “Có thực mới vực được đạo”. Việc tăng đầu tư, tăng tổng chi ngân sách nhà nước cho giáo dục và đội ngũ nhà giáo không chỉ thể hiện sự quan tâm thiết thực của Đảng đối với giáo dục, mà chính là giải pháp cụ thể của Đảng và Nhà nước góp phần thực hiện bằng được mục tiêu đề ra cho ngành giáo dục.
Sự đầu tư thỏa đáng này sẽ đóng vai trò quan trọng để thực hiện, hiện đại hóa nhà trường, để tất cả các trường đều được “trường ra trường, lớp ra lớp”. Đồng thời, có đầu tư sẽ có trang thiết bị hiện đại để nâng cao chất lượng đào tạo, gắn đào tạo với nghiên cứu và gắn hoạt động đổi mới sáng tạo của các trường với các doanh nghiệp tốt và nhanh hơn nữa. Việc nâng cao chế độ đãi ngộ là sự động viên rất lớn và kịp thời của Đảng và Nhà nước với các nhà giáo. Đời sống, thu nhập được cải thiện, nhà giáo sẽ yên tâm công tác, toàn tâm toàn ý cho sự nghiệp "trồng người", tăng sức thu hút của nghề nhà giáo với xã hội.
Những giải pháp tài chính trên là những "đòn bẩy" rất quan trọng, trực tiếp góp phần nâng cao chất lượng giáo dục đại học, đẩy nhanh tốc độ hội nhập quốc tế của hệ thống giáo dục Việt Nam.
Nghị quyết 71-NQ/TW là Nghị quyết cải tổ giáo dục Việt Nam. Tôi kỳ vọng Nghị quyết 71-NQ/TW sẽ đưa giáo dục Việt Nam, trong đó và trước hết là giáo dục đại học Việt Nam cất cánh, để đồng hành và cộng hưởng với Nghị quyết 57-NQ/TW và Nghị quyết 59-NQ/TW, thực hiện khát vọng quốc gia giàu mạnh, hùng cường, Việt Nam sẽ sánh vai và trở thành quốc gia phát triển vào năm 2045.
GS.TSKH Nguyễn Đình Đức
Kỳ vọng giáo dục Việt Nam sẽ là nền giáo dục “học thật - nhân tài thật”
- Lần đầu tiên, Việt Nam đặt mục tiêu có một đại học lọt top 100 thế giới, 8 trường trong top 200 châu Á. Với kinh nghiệm quản lý và nghiên cứu của mình, theo ông, chúng ta cần chuẩn bị những điều kiện gì để biến mục tiêu này thành hiện thực?
- Với xuất phát điểm về xếp hạng của các trường đại học Việt Nam như hiện nay, để đạt được mục tiêu có trường đại học xếp hạng top 100 thế giới là câu chuyện không đơn giản và dễ dàng. Nhưng chính vì mục tiêu đó mà chúng ta phải đổi mới tư duy, đổi mới đầu tư, đổi mới cơ chế chính sách và đổi mới hành động để giáo dục đại học Việt Nam cất cánh.
Để đạt được mục tiêu này, trước hết phải quan tâm phát triển tiềm lực khoa học công nghệ trong các trường đại học. Đây là yếu tố đầu tiên và quan trọng nhất. Muốn xếp hạng cao, các trường đại học phải có đội ngũ cán bộ giảng viên đại học giỏi giang và ưu tú, không chỉ công bố khoa học đỉnh cao mà còn có năng lực đổi mới sáng tạo, gắn kết thật tốt các hoạt động đào tạo và nghiên cứu, đổi mới sáng tạo với doanh nghiệp; có hoài bão cống hiến và chấn hưng đất nước. Mà đào tạo con người, nhất là đội ngũ cán bộ khoa học giỏi bên cạnh đầu tư cũng cần sự "chín" về thời gian.
Hai là, phải chăm lo cơ sở vật chất, phòng thí nghiệm hiện đại trong nhà trường. Thực tế với ưu thế về nghề nghiệp và xu thế phát triển của thời đại, tôi cho rằng những trường đại học có lĩnh vực khoa học tự nhiên, kỹ thuật công nghệ mạnh sẽ dễ sớm đạt được mục tiêu xếp hạng cao này nhanh hơn.
Ba là, phải tạo cơ chế để các trường đại học thu hút được nhân tài cho sự phát triển, xây dựng được những tập thể - các nhóm nghiên cứu mạnh, xuất sắc trong nhà trường.
Và yếu tố vô cùng quan trọng là đổi mới quản trị đại học. Các trường đại học phải được tự chủ mạnh mẽ và toàn diện. Kinh nghiệm về tự chủ đại học của Nhật Bản từ năm 2004 là bài học quý: Trước tự chủ chỉ có 2 trường là Đại học Tổng hợp Tokyo và Đại học Tổng hợp Osaka xếp hạng 100 thế giới, sau tự chủ đại học chỉ một thời gian ngắn đã có 5 trường đại học top 100 thế giới, trong đó có cả trường đại học ngoài công lập.
Tự chủ đại học là cơ chế, nhưng cũng chính là lợi thế, là nguồn lực, nhiều khi còn quan trọng và đem lại những hiệu quả nhanh và mạnh hơn đầu tư tiền bạc trực tiếp. "Khoán 100", "khoán 10" trước đây trong nông nghiệp là một ví dụ về sức mạnh của tự chủ và cơ chế chính sách. Nghị quyết 71-NQ/TW chính là "khoán 100", "khoán 10" trong giáo dục đại học.
Nghị quyết 71-NQ/TW chủ trương ưu tiên và khuyến khích đầu tư phát triển trường đại học theo mô hình đổi mới sáng tạo và kỹ thuật công nghệ hiện đại, nâng quy mô đào tạo các ngành thuộc lĩnh vực khoa học tự nhiên, kỹ thuật, công nghệ lên đạt 35% tổng quy mô đào tạo là rất phù hợp với xu thế của thời đại.
Tôi cho rằng, nếu đồng loạt triển khai quyết liệt và hiệu quả những giải pháp căn cốt và cơ bản như trên, chúng ta sẽ đạt được mục tiêu có cơ sở giáo dục đại học của Việt Nam có mặt trong top 100 trên các bảng xếp hạng đại học của thế giới.
- Về dài hạn, ông kỳ vọng Nghị quyết 71-NQ/TW sẽ tạo ra những thay đổi gì căn bản nhất cho giáo dục Việt Nam, đặc biệt trong hành trình chuẩn bị nguồn nhân lực cho khát vọng phát triển đất nước đến năm 2045?
- Đích cuối cùng của Nghị quyết 71-NQ/TW, và cũng là mong mỏi của những người thầy như chúng tôi, là giáo dục Việt Nam sẽ phải thực sự là nền giáo dục thực chất “học thật - nhân tài thật”, đào tạo ra những con người “vừa hồng vừa chuyên”, có năng lực trình độ chuyên môn tốt, trình độ cao, giỏi ngoại ngữ, giỏi AI, nhưng cũng mang trong mình tình yêu Tổ quốc nồng nàn với khát vọng và hoài bão cống hiến vì hạnh phúc của Nhân dân.
Ngành giáo dục phải đào tạo và bồi dưỡng nhân tài, đào tạo những thế hệ tinh hoa làm chủ đất nước và kế cận tương lai, xứng đáng là "nguyên khí của quốc gia", để dân tộc Việt Nam độc lập, tự chủ và trường tồn; và Việt Nam phải có những cơ sở giáo dục đại học uy tín, sánh ngang với các trường đại học hàng đầu của nước ngoài.
- Xin cảm ơn ông!