Cần linh hoạt về chính sách để đạt mục tiêu phát triển kinh tế

- Thứ Sáu, 23/02/2024, 11:00 - Chia sẻ

Để đạt mục tiêu Việt Nam trở thành “quốc gia đang phát triển có thu nhập trung bình cao với nền công nghiệp hiện đại” vào năm 2030 và “quốc gia phát triển có thu nhập cao” vào năm 2045, thì trong 20 năm tới tăng trưởng kinh tế phải đạt tốc độ bình quân 7%/năm. Tuy nhiên, đâu là điều kiện để Việt Nam đạt được mục tiêu đề ra vẫn là câu hỏi.

Những vấn đề này được nêu và thảo luận tại tọa đàm Đối thoại Chính sách quý 1 năm 2024 với chủ đề “30 năm phát triển của Việt Nam: Nhìn lại quá khứ và ứng phó với thách thức mới” do Trường Đại học Kinh tế quốc dân (NEU) phối hợp với Viện Nghiên cứu chính sách quốc gia Nhật Bản tổ chức, tại Hà Nội, ngày 22.2.

 Xu hướng mới được định hình

Phát biểu đề dẫn tọa đàm, Hiệu trưởng Trường Đại học Kinh tế Quốc dân GS.TS. Phạm Hồng Chương chia sẻ, giai đoạn 2024 - 2030 là giai đoạn quyết định để Việt Nam chuyển mình theo tinh thần của Chiến lược phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam giai đoạn 2021- 2030; mở ra nhiều cơ hội phát triển cho kinh tế nước ta đặc biệt là dưới tác động của quá trình toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế và cuộc Cách mạng Công nghiệp 4.0. 

Để đạt mục tiêu phát triển kinh tế cần linh hoạt về chính sách  -0
Quang cảnh tọa đàm

Theo đánh giá của các chuyên gia kinh tế, trong hơn ba thập kỷ qua, Việt Nam đã chuyển đổi mạnh mẽ từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế định hướng thị trường. Từ nền kinh tế đóng và thay thế nhập khẩu, Việt Nam đã trở thành một trong những nền kinh tế có độ mở lớn nhất với định hướng xuất khẩu. Việt Nam cũng chuyển từ nền kinh tế thu nhập thấp dựa vào nông nghiệp sang nền kinh tế công nghiệp hóa mới, với thu nhập trung bình thấp. Tăng trưởng mà Việt Nam có được trong thời gian qua phần lớn là do tác động của tự do hóa đúng thời điểm, lợi thế về vị trí địa lý, tài nguyên phong phú, lao động dồi dào…

Để đạt mục tiêu phát triển kinh tế cần linh hoạt về chính sách -0
Hiệu trưởng Trường Đại học Kinh tế Quốc dân GS.TS Phạm Hồng phát biểu tại tọa đàm

Tuy nhiên, cũng theo các chuyên gia, Việt Nam có thể tiếp tục tăng trưởng nhanh và bền vững, dần bước vào nhóm các nước có thu nhập cao như: Hàn Quốc và Đài Loan… đã làm được trong thời gian qua và tránh được những bước theo vết xe đổ của một số quốc gia lân cận như Thái Lan, Malaysia, Indonesia, nếu có những chính sách linh hoạt. Theo GS.TS Phạm Hồng Chương, để quá trình phát triển không bị dừng ở ngưỡng thu nhập trung bình, ngay từ bây giờ Việt Nam cần có những định hướng chiến lược. Bên cạnh đó, còn cần những hành động cụ thể để duy trì được tốc độ tăng trưởng nhanh, bền vững và trở thành nước có thu nhập cao trong tương lai. 

Thực tiễn cho thấy, một số xu hướng lớn đang định hình tương lai của Việt Nam. Đó là sự phát triển mạnh mẽ của cuộc Cách mạng Công nghiệp 4.0, công nghệ số, trí tuệ nhân tạo… mang đến cơ hội nâng cao khả năng cạnh tranh, tính bền vững về kinh tế, chất lượng sản phẩm, dịch vụ và quy trình sản xuất. Nhưng cũng đặt ra nhiều thách thức to lớn như: gia tăng thất nghiệp hay những thách thức về chính trị, xã hội, thể chế; nhiều vấn đề về hạ tầng; rủi ro lớn hơn về an toàn, an ninh thông tin và rủi ro về cạnh tranh và tụt hậu. Trong khi đó, dân số Việt Nam đang già đi nhanh chóng. Thương mại toàn cầu đang suy giảm và các doanh nghiệp phải tuân thủ những yêu cầu nghiêm ngặt hơn về môi trường, xã hội. Suy thoái môi trường, biến đổi khí hậu đang gia tăng. “Mặc dù vậy, tăng trưởng của Việt Nam cũng chưa đủ nhanh để tạo ra những đột phá trong thực hiện tiến bộ xã hội. Tốc độ tăng và chất lượng tăng trưởng đang chậm lại, sự bất công bằng trong phân phối thu nhập có xu hướng gia tăng cũng là vấn đề đáng lo ngại… vì nó làm giảm khả năng gia tăng thu nhập của nền kinh tế”, GS.TS.Ngô Thắng Lợi nhấn mạnh.

Để đạt mục tiêu phát triển kinh tế cần linh hoạt về chính sách  -0
GS.TS Ngô Thắng Lợi phát biểu tại tọa đàm

Tại tọa đàm, các chuyên gia cũng nhận định, hiệu ứng của tăng trưởng kinh tế đến thực hiện tiến bộ xã hội giảm dần. Tăng trưởng kinh tế chưa có tác động đồng thuận đến cải thiện các nhu cầu phi vật chất nên đã hạn chế đến phát triển con người. Ở các vùng chậm phát triển, thu nhập thấp mối quan hệ không đồng thuận giữa tăng trưởng với công bằng xã hội gay gắt hơn. Kinh nghiệm và bài học thế giới cho thấy, các quốc gia có thể đạt mức thu nhập trung bình nhờ tự do hóa, tư nhân hóa và hội nhập quốc tế. Nhưng để đạt mức thu nhập cao hơn đòi hỏi nỗ lực chính sách để kích thích sự năng động của khu vực tư nhân, chứ không phải tự do kinh doanh…

Trong khuôn khổ tọa đàm, ngoài việc đánh giá tổng quan về tình hình phát triển của Việt Nam trong 30 năm qua và phân tích những tồn tại, vấn đề đặt ra cho nền kinh tế; phân tích các chính sách phát triển của Việt Nam, so sánh với kinh nghiệm của các quốc gia trong khu vực về xây dựng và thực thi chính sách phát triển. Các chuyên gia cũng gợi ý một số chính sách cho Đảng, Nhà nước, các nhà quản lý và cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam ứng phó với thách thức mới nhằm tăng trưởng bền vững và hoàn thành trở thành nước có thu nhập trung bình cao trước năm 2030 và thu nhập cao trước năm 2045.

Cần đồng bộ nhiều yếu tố

Nhìn lại sự phát triển của Việt Nam, GS. Trần Văn Thọ (Đại học Waseda – Nhật Bản) chỉ ra, những thành tựu lớn về tăng trưởng thu nhập nhanh và các thành tựu xã hội về xóa đói giảm nghèo, giáo dục, giảm tỷ lệ tử vong... Bên cạnh đó là những thành công về chuyển đổi cơ cấu kinh tế và thành công của chính sách thu hút đầu tư trực tiếp ngoài (FDI), chính sách thương mại thành công (WTO, ASEAN, FTA, TPP, RCEP…) và sự trỗi dậy của một số doanh nghiệp có năng lực cạnh tranh cao như: Vingroup/Vinfast, Viettel, FPT…  Mặc dù vậy, Việt Nam vẫn cần nhiều hơn thế. Trong đó, cần tập trung vào nhân tố chủ đạo là chính sách. Học hỏi cơ chế chính sách của các chính phủ hoạt động hiệu quả ở Đông Á để tránh được những rủi ro trong quá trình phát triển kinh tế…

Để đạt mục tiêu phát triển kinh tế cần linh hoạt về chính sách  -0
GS. Trần Văn Thọ (Đại học Waseda – Nhật Bản) phát biểu tại tọa đàm

Phát biểu tại tọa đàm, TS. Trần Văn Thọ nhận định, với 30 năm đổi mới và phát triển, kinh tế Việt Nam tăng trưởng khả quan. Từ thập niên 1990 Việt Nam đã cho thấy, một thành quả phát triển đáng kể, nhưng nền kinh tế chưa có được thời kỳ phát triển cao (tăng trưởng mỗi năm phải đạt 10% và tốc độ này phải được duy trì trong 10 năm). Ở trong giai đoạn dân số vàng mức độ công nghiệp hóa của Việt Nam rất thấp. Khu vực phi chính thức còn lớn và tỷ lệ doanh nghiệp siêu nhỏ, nhỏ quá nhiều… Do đó, trong khoảng một thập niên tới, Việt Nam cần linh động nhiều giải pháp…

Còn theo GS. Kenichi (Viện Nghiên cứu chính sách Quốc gia Nhật Bản), vấn đề của Việt Nam là tăng trưởng đang chậm lại ở mức thu nhập trung bình (quá sớm) thay vì tăng tốc, lại đang phụ thuộc nhiều vào FDI để xuất khẩu, công nghệ và chuyển đổi cơ cấu kinh tế. Sự tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu của doanh nghiệp Việt Nam còn mờ nhạt. Việt Nam lại chậm xây dựng hệ thống giao thông hiện đại (đặc biệt là mạng lưới đường sắt đô thị)…

Bên cạnh đó, các vấn đề về môi trường và tài nguyên khác nữa... vẫn là rào cản cho sự phát triển bền vững. Mặc dù, Việt Nam đạt nhiều thành công về phát triển trong những năm 1990, 2000 và 2010, chất lượng chính sách được cải thiện, nhưng vẫn chưa tối ưu. Hỗ trợ chính sách cho doanh nghiệp trong nước cũng chưa đủ… Đặc biệt, có rất nhiều biểu hiện về bẫy thu nhập trung bình của Việt Nam như: tăng trưởng chậm lại ở mức thu nhập trung bình; thiếu kỹ sư, nhà đổi mới và nhà khoa học có tay nghề cao; năng suất lao động và năng suất các yếu tố tổng hợp ở mức trung bình (TFP); phụ thuộc nhiều vào FDI và tham gia mờ nhạt vào chuỗi giá trị toàn cầu...

“Để đối phó với những vấn đề này, Việt Nam cần nâng cao năng lực lãnh đạo quốc gia và các nhà kỹ trị kinh tế. Cần tích cực thúc đẩy công nghệ và đổi mới với ít quan liêu hơn”, GS. Kenichi Ohno khuyến nghị.

Để đạt mục tiêu phát triển kinh tế cần linh hoạt về chính sách  -0
GS. Kenichi (Viện Nghiên cứu chính sách Quốc gia Nhật Bản) phát biểu tại tọa đàm

Khuyến nghị về chiến lược và chính sách để phát triển đạt mức thu nhập cao, GS. Trần Văn Thọ nhấn mạnh 5 chính sách bao gồm: đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu để tăng năng suất; chính thức hóa khu vực phi chính thức và tăng quy mô doanh nghiệp để đẩy mạnh tích lũy tư bản và cách tân công nghệ (đổi mới sáng tạo); cải cách và phát triển thị trường các yếu tố sản xuất để việc phân bổ nguồn lực có hiệu quả và đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu; chú trọng cung cấp lao động có kỹ năng và khuyến khích hoạt động nghiên cứu và phát triển trong các doanh nghiệp nhằm đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu của khách hàng (R&D) để thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu; tăng cường năng lực đổi mới sáng tạo. 

Cũng tại tọa đàm, các chuyên gia cho rằng, trong khoảng một thập niên tới, Việt Nam cần mở rộng công nghiệp hóa, chuyển dịch cơ cấu công nghiệp và cải cách thể chế… Đồng thời, cần chuẩn bị cho thời đại tăng trưởng dựa trên đổi mới sáng tạo và xa hơn. Việt Nam đã nhận thấy sự quan trọng của đổi mới sáng tạo đối với tăng trưởng kinh tế, nhưng nỗ lực cho đến nay còn yếu và con đường lý tưởng cho tương lai là liên tục chuyển cơ cấu lợi thế so sánh lên cao hơn…

Đức Hiệp
#