Quốc hội và Cử tri

Hành trình của Quốc hội trong thời kỳ đất nước có chiến tranh

TS. Bùi Ngọc Thanh Nguyên Chủ nhiệm VPQH 14/09/2025 14:10

“Quốc hội ra đời trong khói lửa của cuộc đấu tranh dân tộc gay gắt. Đó là Quốc hội lập quốc, Quốc hội của độc lập dân tộc, của thống nhất đất nước và của đại đoàn kết toàn dân”(*). Thời kỳ đất nước có chiến tranh có độ dài tới 30 năm, trải qua 5 khóa Quốc hội (1946 - 1976).

Quốc hội kháng chiến và kiến quốc

Quốc hội khóa I của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là Quốc hội thống nhất cả nước, Quốc hội của dân, do dân và vì dân, Quốc hội kháng chiến và kiến quốc, thực hiện nhiệm vụ dân tộc và dân chủ, phát triển và phát huy chế độ dân chủ nhân dân. Quốc hội khóa I đã hoàn thành nhiệm vụ đối với một thời kỳ lịch sử quan trọng của đất nước. Từ tháng 7/1954 đến tháng 4/1975 đất nước tạm thời bị chia cắt làm hai miền. Trong điều kiện lịch sử mới của đất nước, tháng 7/1960, nhân dân miền Bắc đã tiến hành cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa II. Kế tục sự nghiệp của Quốc hội khóa I, Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa từ khóa II đến khóa V đã trải qua 16 năm hoạt động (tháng 7/1960 đến tháng 6/1976). Đây là những năm tháng hoạt động đầy thử thách quyết liệt trong bối cảnh chúng ta phải tiến hành đồng thời hai chiến lược cách mạng khác nhau. Cách mạng XHCN ở miền Bắc và Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam. Đặc biệt là, từ năm 1965 trở đi cả nước phải tiến hành cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước - một cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc dài nhất, quyết liệt nhất, oanh liệt nhất và đã giành được thắng lợi to lớn mang tầm vóc lịch sử vĩ đại và có tính thời đại sâu sắc.

Ngày 3/9/1945, trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời đã quyết định tổ chức Tổng tuyển cử bầu Quốc hội Khóa I để soạn thảo và thông qua Hiến pháp nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Sau đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh tổ chức Tổng tuyển cử vào ngày 6/1/1946. Trong ảnh: Chủ tịch Hồ Chí Minh tham dự mít tinh của hàng vạn nhân dân Thủ đô chào mừng Người và các vị được giới thiệu ra ứng cử tại Hà Nội tại sân vận động Phúc Tân ngày 5/1/1946. Ảnh: TTXVN

Đại biểu Quốc hội các khóa II, III, IV và V do cử tri miền Bắc bầu ra và các đại biểu khóa I do các cử tri ở miền Nam bầu ra, được Quốc hội quyết định lưu nhiệm trong nhiệm kỳ khóa II và Khóa III là hình ảnh đẹp của khối đại đoàn kết dân tộc rộng rãi. Họ là những đại diện tiêu biểu của các đảng phái yêu nước và cách mạng (Đảng Lao động Việt Nam - nay là Đảng Cộng Sản Việt Nam; Đảng Dân chủ Việt Nam, Đảng Xã hội Việt Nam); các đoàn thể nhân dân, các lực lượng vũ trang nhân dân, các giai cấp, các dân tộc thiểu số, các tôn giáo, các nhân sĩ trí thức yêu nước, tất cả đồng lòng, quyết tâm phấn đấu vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội dưới ngọn cờ độc lập, tự do của Chủ tịch Hồ Chí Minh do Đảng Lao động Việt Nam lãnh đạo.

Quốc hội là cơ quan quyền lực cao nhất của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Tổ chức của Quốc hội ngày càng hợp lý, chặt chẽ. Ủy ban Thường vụ Quốc hội tất cả các khóa đều bảo đảm về số lượng, cơ cấu thành phần và chất lượng nhân sự. Các cơ quan của Quốc hội ở khóa I là các Tiểu ban, các khóa sau được nâng cấp thành Ủy ban; về số lượng từ 3 cơ quan lên 5 cơ quan, rồi 6 cơ quan, tức là phân công công việc từ tổng hợp đến ngày càng chuyên sâu để đáp ứng yêu cầu chất lượng hoạt động.

Hoạt động của Quốc hội ngày càng nâng cao được hiệu lực và hiệu quả. Trong 5 nhiệm kỳ, Quốc hội đã xây dựng và ban hành được 2 bản Hiến pháp (Hiến pháp năm 1946 và Hiến pháp năm 1959), 18 đạo luật; Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã xây dựng và ban hành được 20 pháp lệnh. Hiến pháp, luật và pháp lệnh đều nhằm phục vụ cho việc điều hành, quản lý nhà nước, quản lý xã hội, kiện toàn bộ máy nhà nước, mở rộng và phát huy dân chủ đối với nhân dân, tăng cường chuyên chính đối với kẻ thù, bảo vệ nhà nước, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân.

Quốc hội đã thông qua kế hoạch phát triển kinh tế quốc dân 5 năm lần thứ nhất (1961-1965), các kế hoạch kinh tế ngắn hạn trong hoàn cảnh đất nước có chiến tranh. Việc thực hiện các kế hoạch kinh tế, tiếp tục xây dựng, phát triển miền Bắc trong thời chiến có nhiều khó khăn, phức tạp, song miền Bắc đã cơ bản hoàn thành các kế hoạch do Quốc hội thông qua, tạo ra sự chuyển biến nhiều mặt trên miền Bắc. Những năm 1960-1976, miền Bắc đã có những bước tiến dài chưa từng có trong lịch sử dân tộc. Đất nước, dân tộc, con người đều có sự đổi mới. Miền Bắc đã tạo được một tiềm lực kinh tế, quốc phòng to lớn, trở thành căn cứ địa vững chắc cho cách mạng trong cả nước với chế độ chính trị ưu việt, có đủ sức chiến đấu, đánh thắng chiến tranh phá hoại của Mỹ, chi viện đủ sức người, sức của và cả tinh thần chính trị cho tiền tuyến lớn miền Nam.

Quốc hội đã đẩy mạnh hoạt động đối ngoại, tranh thủ sự đồng tình và ủng hộ của quốc tế đối với sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước vì độc lập, tự do của nhân dân Việt Nam, góp phần tạo nên sức mạnh tổng hợp - sức mạnh dân tộc và sức mạnh quốc tế để chiến đấu và chiến thắng các thế lực xâm lược.

Đại biểu Quốc hội do nhân dân bầu ra theo đường lối chính sách cán bộ của Đảng là những người có đạo đức cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, khiêm tốn, hòa mình với quần chúng, một lòng, một dạ phụng sự nhân dân và phục vụ Tổ quốc. Những năm 1960-1976 quan hệ giữa Quốc hội với Chính phủ và các cơ quan tư pháp luôn gắn kết với nhau trên cơ sở mỗi cơ quan đều thực hiện đúng đắn chức năng, nhiệm vụ của mình theo luật định cùng nhằm mục tiêu phục vụ sự nghiệp cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng...

Tuy nhiên, do đất nước có chiến tranh kéo dài và ác liệt suốt 30 năm nên hoạt động của Quốc hội cũng bị chi phối mạnh, do đó có những hạn chế nhất định. Quốc hội tập trung nhiều thời gian, công sức xử lý có hiệu quả chức năng quyết định, quyết nghị kịp thời các quyết sách phục vụ kháng chiến. Hai chức năng lập pháp và giám sát có phần bị hạn chế. Ngoài 2 bản Hiến pháp, số lượng các đạo luật và pháp lệnh được xây dựng, thông qua không nhiều. Mọi hoạt động của cả nước đều nhằm mục tiêu đánh đuổi quân xâm lược nên chức năng giám sát của Quốc hội chưa thể thực thi đầy đủ. Hô hào, động viên mọi lực lượng với mọi biện pháp cố gắng hoàn thành nhiệm vụ phục vụ kháng chiến là chính yếu; giám sát chỉ ở mức độ răn đe hoặc chỉ tập trung vào một số vụ việc trực tiếp gây tổn hại đến kháng chiến, kiến quốc...

Năm bài học kinh nghiệm

Năm khóa Quốc hội hoạt động trong 30 năm chiến tranh xen lẫn hòa bình, từ trạng thái đất nước núi, sông, biển cả liền một dải đến tạm thời chia cắt, rồi kháng chiến chống quân xâm lược thắng lợi hoàn toàn, đất nước thống nhất, non sông thu về một mối, thì có rất nhiều bài học kinh nghiệm. Song, đối với Quốc hội có thể nêu lên 5 bài học chủ yếu sau đây.

Một là, Đảng lãnh đạo toàn diện và tuân thủ tuyệt đối sự lãnh đạo của Đảng là yếu tố đảm bảo cho mọi thắng lợi của Quốc hội:

Đảng ta đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cấp bách vạch ra và chỉ đạo tổ chức cuộc Tổng tuyển cử đầu tiên ngày 6/1/1946 chỉ trong 4 tháng sau Cách mạng tháng Tám thành công. Cuộc Tổng tuyển cử diễn ra trong hoàn cảnh thù trong, giặc ngoài, tình hình chính trị, kinh tế, xã hội hết sức khó khăn.

Thực chất Tổng tuyển cử là một cuộc đấu tranh chính trị mở đầu cho việc thành lập nhà nước, trước hết là thành lập Quốc hội đã diễn ra vô cùng quyết liệt của toàn dân tộc. Nhưng nhờ sự chèo lái tài nghệ của Đảng, của Bác Hồ mà cuộc Tổng tuyển cử đã thành công vang dội. Quốc hội ra đời trong khói lửa chiến tranh. 30 năm, dân tộc Việt Nam phải đương đầu với 2 cuộc chiến tranh với 2 đế quốc, nhưng nhờ đường lối kháng chiến sáng suốt của Đảng mà tất cả đều chiến thắng vẻ vang. Đó là đường lối kháng chiến đúng đắn, độc lập, tự chủ, sáng tạo, quyết chiến và quyết thắng.

Chủ tịch Hồ Chí Minh là đại biểu Quốc hội trong suốt thời gian 24 năm (1946-1969) tại các nhiệm kỳ khóa I, khóa II và khóa III, nhưng với vị trí là người đứng đầu Đảng ta, Người đã có 38 lần phát biểu nói về Quốc hội trong nước và 14 lần nói về Nghị viện các nước trên thế giới. Lần đầu tiên, chuẩn bị cho Tổng tuyển cử, Người nói với toàn dân, “Do Tổng tuyển cử mà toàn dân bầu ra Quốc hội. Quốc hội sẽ cử ra Chính phủ. Chính phủ đó thật là Chính phủ của toàn dân”. Chỉ đạo đó không chỉ là động viên toàn thể cử tri lần đầu tiên được hưởng thành quả độc lập, tự do, dân chủ, cần phải làm tròn bổn phận công dân mà hơn thế nữa còn là xác định rõ một quy trình thành lập Nhà nước (phải có Quốc hội đại diện cho dân rồi mới thành lập được Chính phủ...). Với cương vị là Chủ tịch nước, thay mặt lãnh đạo Đảng, Bác đã vạch ra đường hướng tổng quát cho mọi hoạt động của Quốc hội. “Quốc hội khóa I là Quốc hội chiến đấu. Quốc hội đã đoàn kết nhân dân và giúp đỡ Chính phủ đưa cuộc kháng chiến đến thắng lợi vẻ vang... Quốc hội đã thông qua Hiến pháp mới và Luật Tổng tuyển cử... Quốc hội khóa I đã hoàn thành nhiệm vụ của nó một cách vẻ vang” thì “Quốc hội khóa II phải là Quốc hội xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc làm nền tảng vững chắc cho công cuộc đấu tranh thống nhất nước nhà. Vì vậy, Quốc hội phải có những đại biểu thật xứng đáng, những đại biểu một lòng một dạ phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân và phục vụ chủ nghĩa xã hội”(1). Trên cương vị cá nhân, Chủ tịch Hồ Chí Minh là một đại biểu Quốc hội mẫu mực, Bác đã nói “hiện nay ở miền Nam ruột thịt, từ các cụ già, các bà mẹ, đến các cháu thanh niên và nhi đồng đều đang anh dũng hy sinh, ra sức chiến đấu chống đế quốc Mỹ cướp nước và bọn Việt gian bán nước, để giành lại quyền độc lập, tư do, thì tôi không thể: Thảnh thơi vui thú thanh nhàn / Sớm khuya tiếng hạc tiếng đàn tiêu dao. Vì vậy tôi cứ phải cố gắng phấn đấu và phấn đấu mạnh. Phấn đấu cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc. Phấn đấu ủng hộ đồng bào miền Nam. Phấn đấu cho sự nghiệp hòa bình thống nhất nước nhà. Phấn đấu cho: Bắc Nam sum họp một nhà/Cho người thấy mặt thì ta vui lòng”(2). Có thể nói, Chủ tịch Hồ Chí Minh là linh hồn của Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Tuân thủ sự lãnh đạo của Đảng, Quốc hội đã thực thi đúng đắn quyền hạn, nhiệm vụ của mình đi đến kháng chiến, kiến quốc thành công; xây dựng CNXH ở miền Bắc vững mạnh; giải phóng hoàn toàn miền Nam, non sông, đất nước thống nhất một nhà.

Hai là, dựa vào dân, học dân và phục vụ nhân dân, Quốc hội mới hoàn thành nhiệm vụ lịch sử vẻ vang của mình:

Đại biểu Quốc hội do cử tri bầu ra; Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân. Trong bối cảnh đất nước mới giành được độc lập; hậu quả của ngót một thế kỷ bị thực dân đế quốc đô hộ làm cho nền kinh tế kiệt quệ, nghèo nàn, lạc hậu; lại phải đương đầu ngay với các cuộc chiến tranh không cân sức, rồi đất nước bị chia cắt...(tình thế đúng nghĩa “ngàn cân treo sợi tóc”) thì sự che chở, đùm bọc, giúp đỡ của nhân dân chính là “bảo bối” với ý nghĩa đặc biệt sâu sắc “khó vạn lần dân liệu cũng xong”. Ngay từ năm 1949, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định vai trò to lớn của nhân dân:

“Nước ta là nước dân chủ

Bao nhiêu lợi ích đều vì dân,

Bao nhiêu quyền hạn đều của dân

Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân,

Sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc là công việc của dân,

Chính quyền từ xã đến Chính phủ trung ương do dân cử ra,

Đoàn thể từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên,

Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”(3).

Ba là, trong hoàn cảnh đất nước có chiến tranh, tổ chức bộ máy hoạt động của Quốc hội phải gọn, nhẹ, cơ động:

Quốc hội khóa I kéo dài 14 năm, tổ chức và hoạt động chủ yếu dựa vào một số điều của Chương III- Nghị viện nhân dân của Hiến pháp năm 1946, từ Điều 22 đến Điều 42. Quốc hội trở thành cơ quan cao nhất đại diện quyền làm chủ của nhân dân, giải quyết mọi vấn đề chung của đất nước. Theo Điều 27 của Hiến pháp thì bộ máy của Quốc hội gồm 1 Nghị trưởng, 2 Phó Nghị trưởng, 12 Ủy viên chính thức, 3 Ủy viên dự khuyết. Quốc hội tổ chức 3 Tiểu ban chuyên môn, nghiệp vụ. Nhưng chiến tranh ác liệt, địa thế “cài răng lược” rất khó liên lạc được với nhau, Ban Thường trực phải tổ chức ra Ban Thường vụ của Ban Thường trực chỉ gồm 5 người; sau cùng chỉ còn Trưởng ban Thường trực (cũng là Trưởng ban Thường vụ) hoạt động bên cạnh Chính phủ. Nghĩa là Quốc hội và Chính phủ cố gắng luôn luôn bên nhau - một sự gắn bó khăng khít, mật thiết để bàn định điều hành công cuộc kháng chiến, kiến quốc.

Trong 16 năm (1960-1976) từ khóa II đến khóa V, Quốc hội được tổ chức theo Hiến pháp năm 1959 đã hoạt động trong thời kỳ tất cả cho tiền tuyến, tất cả để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược. Tổ chức bộ máy của Quốc hội đã hoàn chỉnh hơn, góp phần bảo đảm hiệu lực, hiệu quả của hoạt động của Nhà nước: thực hiện xuất sắc nhiệm vụ xây dựng miền Bắc XHCN; giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, đưa cả nước quá độ đi lên CNXH.

Tổ chức bộ máy hoạt động của Quốc hội phải bảo đảm thực thi có hiệu quả nhất chức năng, nhiệm vụ của mình và phải phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh thực tế của đất nước.

Bốn là, Quốc hội là hiện thân của khối đại đoàn kết thống nhất toàn dân với ý chí sắt đá quyết chiến, quyết thắng:

Ngay từ khóa I, Quốc hội đã đại diện cho nhân dân 3 miền, cứ 5 vạn dân có 1 đại biểu (Nam Bộ 73 đại biểu, Trung bộ 108 đại biểu, Bắc Bộ 152 đại biểu). Do hoàn cảnh đặc biệt có tính ngoại lệ, Quốc hội đã mở rộng thêm 70 đại biểu cho Việt Quốc và Việt Cách không qua bầu cử - một sách lược cần thiết lúc bấy giờ. Nhưng thực tiễn cách mạng và kháng chiến quyết liệt đã sàng lọc những phần tử không xứng đáng, Quốc hội cũng đã bãi nhiệm những đại biểu bỏ nhiệm vụ kháng chiến, vì thế Quốc hội trở nên thuần nhất.

Quốc hội khóa I là Quốc hội dân tộc thống nhất của cả nước, của sự đoàn kết chân thành giữa các đảng yêu nước cách mạng (Đảng Cộng sản, Đảng Dân chủ, Đảng Xã hội), các đoàn thể nhân dân, các dân tộc thiểu số, các tôn giáo, các nhân sĩ trí thức yêu nước dưới ngọn cờ độc lập tự do của cụ Hồ do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Từ khóa II đến khóa V, cơ cấu đại biểu ngày càng mang tính đại diện cao, gồm công nhân, nông dân, xã viên, trí thức, cán bộ chính trị, đảng viên, các dân tộc thiểu số, đại biểu quân đội, phụ nữ, thanh niên...

Khối đoàn kết ngày càng được củng cố vững mạnh. Đó là một trong những yếu tố quan trọng để Quốc hội phát huy trí tuệ trong các hoạt động của mình. Khối đoàn kết thống nhất tiếp tục được phát huy, phát triển ở các khóa tiếp theo cho tới sau này.

Năm là, sự phối hợp chặt chẽ giữa Quốc hội và các cơ quan trong bộ máy nhà nước bảo đảm hiệu lực, hiệu quả cho mọi hoạt động của Quốc hội:

Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, Quốc hội và Chính phủ đã luôn cố gắng gắn kết với nhau để giải quyết tốt nhất các công việc kháng chiến và nhiệm vụ kiến quốc. Trong giai đoạn tiếp theo (1960-1976) khi tổ chức bộ máy nhà nước đã hoàn thiện thì quan hệ giữa Quốc hội với Chính phủ, với Tòa án nhân dân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân tối cao càng được duy trì chặt chẽ. Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã thường xuyên báo cáo với Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội về kết quả những hoạt động của mình theo quy định của pháp luật. Điều đó góp phần làm cho hiệu quả giám sát tối cao của Quốc hội từng bước được nâng cao. Đó cũng là bước đầu cơ quan lập pháp thực thi kiểm soát quyền lực của các cơ quan hành pháp và tư pháp.


(*) Lịch sử Quốc hội Việt Nam 1946 - 1960, trang 53, Nxb CTQG, Hà Nội 1994.

(1) Hồ Chí Minh Toàn tập, Tập 11, trang 334-335, Nxb CTQG, H. 2002.

(2) Như (1), Tập 6, trang 232, H. 2011.

(3) Như (2), Tập 11, trang 245.

    Nổi bật
        Mới nhất
        Hành trình của Quốc hội trong thời kỳ đất nước có chiến tranh
        • Mặc định
        POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO