Kiểm định chất lượng giáo dục đại học: Thiếu sự đối sánh, phát hiện nhiều “lỗ hổng”

- Thứ Tư, 15/03/2023, 06:14 - Chia sẻ

Mặc dù đã có nhiều nỗ lực, nhưng kết quả kiểm định chất lượng hiện nay cho thấy, trong chu kỳ đánh giá thứ nhất, việc xây dựng chương trình đào tạo theo chuẩn đầu ra mới chỉ có hơn 30% chương trình đào tạo đạt yêu cầu.

Sau khi kiểm định chất lượng giáo dục đại học, các chuyên gia đã phát hiện ra nhiều hạn chế, bất cập. Quan điểm phát triển của một số cơ sở GDĐH cũng còn phiến diện do cách hiểu chưa đầy đủ về các khái niệm đại học ứng dụng và đại học nghiên cứu.

Để hiểu rõ hơn về vấn đề này, phóng viên Báo Đại biểu Nhân dân đã có cuộc trao đổi với GS.TS Nguyễn Hữu Đức – nguyên Phó Giám đốc Đại học Quốc gia Hà Nội, chuyên gia độc lập về kiểm định chất lượng giáo dục.

Kiểm định chất lượng giáo dục đại học: Thiếu sự đối sánh, phát hiện nhiều “lỗ hổng” -0
GS.TS Nguyễn Hữu Đức – nguyên Phó Giám đốc Đại học Quốc gia Hà Nội, chuyên gia độc lập về kiểm định chất lượng giáo dục

Người học và nhà sử dụng lao động hưởng lợi

Quản trị và đánh giá chất lượng giáo dục ở nước ta đã được quan tâm nhưng thực sự được triển khai đồng bộ và mạnh mẽ chỉ mới gần 10 năm lại đây, đặc biệt sau khi Bộ GD-ĐT rà soát, ban hành Bộ tiêu chuẩn đánh giá chất lượng cơ sở giáo dục đại học (GDĐH) và đánh giá chất lượng chương trình đào tạo (CTĐT). Là người tham gia thực hiện kiểm định, giáo sư nhận thấy sự thay đổi như thế nào sau khi các trường tham gia kiểm định?

- GS.TS Nguyễn Hữu Đức: Các “chuyển động” đáng kể của đại học Việt Nam do tác động trực tiếp của hoạt động kiểm định chất lượng giáo dục (KĐCLGD) có thể kể đến như sau:

Thứ nhất, hệ thống văn bản quản lý điều hành và hướng dẫn đã tương đối đầy đủ. Căn cứ trên các văn bản quy định, các trung tâm KĐCLGD trong nước bao gồm cả công lập và tư thục đã được thành lập và hoạt động bước đầu đi vào nề nếp.

Thứ hai, giảng dạy đại học bắt đầu có tính chuyên nghiệp hơn, hiện đại hơn sau một thời gian dài giảng viên đại học chỉ yên tâm với việc có chương trình đào tạo, bài giảng, giáo trình, phấn trắng và bảng đen, giảng dạy theo kinh nghiệm và cứ dạy những gì mình biết.

Chúng ta chậm được làm quen với khái niệm chuẩn đầu ra, dạy học, kiểm tra đánh giá dựa vào chuẩn đầu ra và phải đạt được chuẩn đầu ra. Vậy nên tính chuyên nghiệp và hiệu quả dạy học rất thấp.

Với tiếp cận đánh giá chất lượng vừa qua, nhất là đánh giá chất lượng CTĐT, các cơ sở giáo dục, đặc biệt là các khoa, bộ môn đã triển khai tập huấn, hướng dẫn và hầu hết giảng viên đã được tham gia thực hiện xây dựng chuẩn đầu ra cho CTĐT và các học phần gắn với nhu cầu của doanh nghiệp.

Mục tiêu và triết lý dạy học có định hướng rõ ràng hơn, dạy học có nghề hơn. Đó những yếu tố cơ bản nhưng rất quan trọng về tính chuyên nghiệp trong giáo dục đại học. Người học và nhà sử dụng lao động hưởng lợi từ những cải tiến này rất nhiều.

Thứ ba, quản trị đại học bắt đầu được quan tâm. Hiện nay, qua KĐCLGD cho thấy, đa số các cơ sở GDĐH đã quan tâm đến việc xác định sứ mạng, tầm nhìn và chiến lược phát triển rõ ràng, có các chỉ số thực hiện cụ thể, vừa phù hợp với xu thế phát triển, yêu cầu của đất nước và nguồn lực của đơn vị.

Ngoài các mô hình đại học định hướng nghiên cứu, ứng dụng, nhiều cơ sở GDĐH đã tiếp cận mô hình đại học định hướng đổi mới sáng tạo, nêu cao tinh thần khởi nghiệp, thúc đẩy đổi mới sáng tạo, thực hiện chuyển đổi số, từng bước đào tạo cá thể hoá và quan tâm đến các giá trị xã hội mới.

Các nguồn lực ở nhiều cơ sở GDĐH được bố trí khá hợp lý cho các lĩnh vực. Đại học nước ta đã phát triển toàn diện và hội nhập hơn. Việt Nam ngày càng có nhiều cơ sở GDĐH có tên trên bản đồ đại học thế giới.

Thứ tư, Hệ thống GDĐH Việt Nam bước đầu đã hình thành một hệ thống bảo đảm chất lượng tương đối hoàn chỉnh với cả thành tố bảo đảm chất lượng bên ngoài (thành lập 07 trung tâm KĐCLGD trong nước và công nhận hoạt động cho 06 tổ chức KĐCLGD quốc tế) và cả thành tố cơ bản của hệ thống bảo đảm chất lượng bên trong (thành lập các đơn vị bảo đảm chất lượng tại các cơ sở GDĐH).

Đặc biệt, các cơ sở GDĐH cũng đã quan tâm nhiều đến việc khảo sát các bên liên quan về mức độ hài lòng với các tất cả hoạt động. Đấy là những thông tin, con số biết nói, giúp các cơ sở GDĐH nhận diện để cải tiến, từng bước xây dựng và hình thành văn hóa chất lượng của mình.

Nhiều cơ sở GDĐH không còn đối phó với KĐCLGD, không coi việc có giấy chứng nhận KĐCLGD là đích đến, mà là việc đảm bảo chất lượng bên trong và không ngừng phấn đấu để ngày càng tốt hơn sau kiểm định mới là quan trọng.

Mới chỉ có hơn 30% chương trình đào tạo đạt yêu cầu theo chuẩn đầu ra

- Thưa GS, thực tế hiện nay, bên cạnh hệ thống văn bản quản lý điều hành và hướng dẫn đã nêu trên thì cơ chế và những chính sách về khen thưởng hay xử phạt sau KĐCLGD có vẻ vẫn chưa đủ mạnh nên còn rất nhiều bất cập?

- GS.TS Nguyễn Hữu Đức: Việc KĐCLGD là bắt buộc nhằm không ngừng nâng cao chất lượng và trách nhiệm giải trình với các bên liên quan về thực trạng chất lượng đào tạo của cơ sở GDDH. Lợi ích của việc thực hiện KĐCLGD đã hiện hữu, nhưng chưa có các chế tài cụ thể đối với các cơ sở GDĐH chưa thực hiện tốt công tác KĐCLGD theo kế hoạch của cơ quan có thẩm quyền hay không đạt chuẩn chất lượng.

Mặc dù đã có nhiều nỗ lực, nhưng kết quả KĐCLGD hiện nay cho thấy, 5 năm qua, trong chu kỳ đánh giá thứ nhất, việc xây dựng CTĐT theo chuẩn đầu ra (CĐR) mới chỉ có hơn 30% CTĐT đạt yêu cầu.

Ngoài năng lực áp dụng thang nhận thức Bloom, việc áp dụng thang này phù hợp với khung trình độ quốc gia, yêu cầu của thời đại số và kỷ nguyên đổi mới sáng tạo còn là một thách thức lớn.

Hơn thế nữa, việc đánh giá mức độ đạt chuẩn đầu ra cũng chưa được quan tâm nhiều kể cả hai phía: cơ sở GDĐH và các đoàn chuyên gia đánh giá ngoài. Vậy nên, bài toán mức độ đạt CĐR của người học khi tốt nghiệp vẫn còn để ngỏ.

Kiểm định chất lượng giáo dục đại học: Thiếu sự đối sánh, phát hiện nhiều “lỗ hổng” -0
GS Nguyễn Hữu Đức: "Nhiều đoàn chuyên gia đánh giá cơ sở giáo dục tuyên bố phát hiện được đến hàng trăm lỗi kỹ thuật, nhưng để có thể tư vấn hiệu quả thì cũng còn thách thức"

Chiến lược còn theo kiểu “bốc thuốc”

- Như vậy, nhiều cơ sở GDĐH mới chỉ dừng lại việc xác định tầm nhìn và sứ mạng như là việc mô tả và liệt kê lại nhiệm vụ của mình?

- GS.TS Nguyễn Hữu Đức: Quan điểm phát triển của một số cơ sở GDĐH cũng còn phiến diện do cách hiểu chưa đầy đủ về các khái niệm đại học ứng dụng và đại học nghiên cứu.

Vì thế cách thiết kế chiến lược, tổ chức và bố trí nguồn lực còn bất hợp lý. Tầm nhìn cũng còn chung chung nên khó khăn trong việc xác định các chỉ số thực hiện chính.

Tự chủ là cơ hội để các cơ sở GDĐH phát huy tự chủ học thuật của mình, nhưng những năm lại đây chỉ có chỉ số tuyển sinh được tăng cường, còn các chỉ số nghiên cứu, đổi mới sáng tạo và phục vụ cộng đồng hầu như được cải thiện rất ít.

Bên cạnh đó, đối sánh, so chuẩn là một trong những công cụ hiệu quả của đánh giá chất lượng, đặc biệt là đảm bảo chất lượng bên trong, phải được thực hiện thường xuyên, trước, trong và sau KĐCLGD.

Tuy nhiên, gần như hầu hết các cơ sở GDĐH và CTĐT đều chưa đạt đối với các tiêu chí có liên quan đến yêu cầu đối sánh. Mặc dù thế giới đã phẳng, thông tin rất dễ tìm kiếm, thậm chí cũng đã có một số bảng xếp hạng đối sánh đã xác lập các tiêu chuẩn, chỉ báo, chỉ số rất chi tiết, nhưng khả năng này của chúng ta đang rất yếu, chưa biết chọn đối tác, mô hình, chỉ số thực hiện chính để đối sánh.

Vậy nên tình trạng làm chiến lược theo kiểu “bốc thuốc” vẫn còn. Về phía các chuyên gia kiểm định cũng vậy, nếu năng lực đối sánh hạn chế thì khả năng đánh giá và khuyến nghị cũng rất bất cập.

- Nguyên nhân vì sao thưa GS?

- GS.TS Nguyễn Hữu Đức: Nói là KĐCLGD đang tiến hành đánh giá các điều kiện tối thiểu, nhưng các tiêu chuẩn ấy đang nằm phân tán trong nhiều văn bản pháp quy và chậm được cập nhật, từ quy định tỉ lệ giảng viên/người học, đến diện tích khuôn viên, rồi yêu cầu về thư viện, về yêu cầu giảng viên có trình độ tiến sĩ đối với từng CTĐT…

Các tiêu chuẩn này lại được áp dụng qua các lăng kính ít nhiều khác nhau của các Trung tâm KĐCLGD, các đoàn chuyên gia nên cũng tạo ra một số khác biệt.

Cần phải có một bộ chuẩn tích hợp, như một cẩm nang chung của ĐH Việt Nam, trong đó có quy định cả quản trị đại học, CTĐT, giảng viên, cơ sở vật chất, NCKH và phục vụ cộng đồng, cho phép đánh giá năng lực thực, kết quả thực chứ không chỉ đánh giá kiểu ISO, quy trình, chính sách.

Bên cạnh đó, năng lực tư vấn đảm bảo chất lượng cũng chưa đạt ngưỡng; thông tin đối sánh còn nghèo nàn.

Trong thời đại thông tin như hiện nay, nếu chú ý tìm kiếm thông tin đối sánh, so chuẩn chất lượng giáo dục cũng không phải là việc khó, tuy nhiên các cơ sở GDĐH chưa thực sự quan tâm, đồng thời chưa được hỗ trợ từ các tổ chức kiểm định chất lượng và cơ quan quản lý chất lượng.

Cơ sở GDĐH thiếu cơ sở dữ liệu đối sánh, nhiều hoạt động không có định hướng, mốc chuẩn. Đó là chưa kể đến việc thông tin đối sánh sẽ giúp các cơ sở GDĐH tiếp cận các trường hợp thực hành tốt, các hình mẫu để cải tiến.

Các chuyên gia đánh giá ngoài hiện nay chủ yếu là các giảng viên, các nhà quản lý giáo dục có kinh nghiệm, trưởng thành từ hệ thống đại học nước nhà. Mặc dù đã được tham gia các khoá huấn luyện và sát hạch kiểm định viên, nhưng nội dung huấn luyện này cũng chưa toàn diện lắm.

Nhiều đoàn chuyên gia đánh giá cơ sở giáo dục tuyên bố phát hiện được đến hàng trăm lỗi kỹ thuật, nhưng để có thể tư vấn hiệu quả thì cũng còn thách thức.

Trong lúc các chuyên gia luôn yêu cầu các cơ sở GDĐH phải đối sánh, thì trong hành trang của các chuyên gia thông tin đối sánh cũng rất nghèo nàn. Do đó khả năng các chuyên gia nhận xét và mang đến cho các cơ sở GDĐH các trường hợp thực hành tốt, các tư vấn khả thi, có giá trị cũng chưa nhiều.

Các cơ sở giáo dục thu học phí cao hơn quy định phải trả lại học sinh, sinh viên
GS Nguyễn Hữu Đức cho rằng, cơ quan quản lý cần sớm ban hành Chuẩn cơ sở giáo dục đại học

Cần ban hành Chuẩn cơ sở giáo dục đại học

- Như vậy, rất cần đánh giá và nhận diện tổng thể về mọi phương diện cơ bản của KĐCL GDĐH để có hệ thống quan điểm quốc gia về hoạt động này. Vậy, theo GS, giải pháp để giải quyết bất cập trên là gì?

- GS.TS Nguyễn Hữu Đức: Tầm nhìn về KĐCLGD phải đảm bảo phát triển bền vững, phải xa hơn, bao quát hơn, không nên chỉ dừng lại tầm nhìn ở 10-15 năm và với một vài phương pháp đánh giá đơn lẻ.

Để thực hiện tầm nhìn này, trước hết, cần tăng cường năng lực cho đội ngũ công chức làm công tác xây dựng chính sách về KĐCLGD, tiếp tục hoàn thiện hệ thống văn bản quản lý điều hành về bảo đảm và KĐCLGD đối với GDĐH, nâng cao năng lực của hệ thống bảo đảm chất lượng bên trong các cơ sở GDĐH phát triển và nâng cao năng lực các tổ chức KĐCLGD, nâng cao chất lượng và bảo đảm về số lượng kiểm định viên đáp ứng theo các tiêu chuẩn quốc gia và tiệm cận tiêu chuẩn quốc tế.

Cần sớm ban hành Chuẩn cơ sở GDĐH. Chuẩn cơ sở GDĐH là bộ tiêu chuẩn thể hiện các yêu cầu tối thiểu mà một cơ sở GDĐH phải đáp ứng khi thành lập và hoạt động nhằm bảo đảm lợi ích của các bên liên quan bao gồm cả các yêu cầu về điều kiện hoạt động, kết quả hoạt động và triển vọng tương lai trong đó có những yêu cầu riêng đối với từng mô hình tổ chức (trường đại học, đại học), lĩnh vực và trình độ đào tạo.

Khi có chuẩn tối thiểu, thước đo sẽ cụ thể hơn, kết quả đánh giá và thông tin chất lượng sẽ minh bạch hơn đối với các bên liên quan.

Tập trung đánh giá mức độ đạt chuẩn đầu ra của các cơ sở đào tạo

-Như vậy, văn hoá chất lượng phải tự các cơ sở giáo dục đào tạo nhận thức và tự điều chỉnh?

- GS.TS Nguyễn Hữu Đức: Cũng không thể phủ nhận là trong giai đoạn vừa qua, vẫn còn nhiều cơ sở GDĐH coi mục tiêu đạt kiểm định là đích đến, nên triển khai hoạt động đảm bảo chất lượng còn hình thức, đối phó nên không hiệu quả và không bền vững.

Chỉ khi nào cơ sở GDĐH quán triệt và chủ trương thực hiện KĐCLGD là để nhận diện và tìm ra các giải pháp nâng cao năng lực thực thi sứ mạng, năng lực phục vụ cộng đồng và năng lực cạnh tranh của mình thì KĐCLGD mới thể hiện được vai trò. Đấy cũng là trách nhiệm xã hội của cơ sở GDĐH. Chỉ với nhu cầu tự thân thì đại học mới phát triển, các giải pháp đưa ra mới có tâm và có tầm.

Trên cơ sở đó, các cơ sở GDĐH không những cần quan tâm xây dựng mà còn tập trung đầu tư nâng cao năng lực của hệ thống đảm bảo chất lượng bên trong, không chỉ giới hạn ở cấp thực thi và triển khai kế hoạch KĐCLGD hàng năm mà phải ở cấp chiến lược, kết nối thông tin, hỗ trợ việc thực hiện thành công chiến lược phát triển chung của toàn cơ sở GDĐH.

Việc cần làm thời gian tới là tập trung đánh giá mức độ đạt chuẩn đầu ra của các CTĐT. Việc đánh giá chất lượng các cơ sở GDĐH là quan trọng, đặc biệt là đánh giá mức độ đảm bảo chất lượng về chiến lược, đảm bảo chất lượng về hệ thống, đảm bảo chất lượng về thực hiện chức năng (đào tạo, NCKH và phục vụ cộng đồng) và kết quả hoạt động.

Trong xã hội thông tin và thế giới phẳng, CĐR được ví như một “đồng tiền chung” để trao đổi, công nhận lẫn nhau trong nước cũng như quốc tế. Nhận thức được tầm quan trọng đó, thực hiện Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật GDĐH, Bộ GDĐT ban hành Thông tư số 17/2021/TT-BGDĐT quy định về chuẩn chương trình đào tạo; xây dựng, thẩm định và ban hành chương trình đào tạo các trình độ của giáo dục đại học.

Với tiếp cận xuyên suốt theo hướng quản lý chất lượng đầu ra, việc “đánh giá đạt CĐR CTĐT” được xem là một yêu cầu mới đối với quản lý chất lượng đào tạo. Cách tiếp cận này sẽ là “cú hích” để cơ sở GDĐH thực hiện cải tiến chất lượng liên tục các CTĐT.

Bên cạnh đó, cần nhất hiện nay là xây dựng “đội ngũ bác sỹ giáo dục” có chất lượng.  Trên thực tế số lượng kiểm định viên được đào tạo, tập huấn, cấp thẻ hành nghề không phải còn nhỏ, nhưng số lượng kiểm định viên có năng lực tốt để tham gia và hoàn thành tốt nhiệm vụ của các đoàn đánh giá ngoài chưa nhiều.

Kết hợp kiểm định chất lượng giáo dục, xếp hạng và xếp hạng đối sánh

- Phương pháp đánh giá chất lượng giáo dục ĐH truyền thống thường được các quốc gia áp dụng là KĐCLGD, vậy theo GS cần thêm phương pháp đánh giá nào nữa?

- GS.TS Nguyễn Hữu Đức: Như đã nói ở trên, phương pháp này thường chỉ tập trung đánh giá điều kiện đảm bảo chất lượng tối thiểu để cơ sở GDĐH được phép hoạt động, còn mức độ xuất sắc hay việc so sánh giữa các cơ sở GDĐH không được thể hiện nhiều, ở một mức độ nào đó, đôi khi đánh đồng chất lượng của các cơ sở GDĐH.

Xu thế hiện nay là tích hợp cả kiểm định và xếp hạng thành xếp hạng đối sánh (rating) thông qua việc so sánh với một bộ mốc chuẩn cho các tiêu chuẩn, chỉ báo. Xếp hạng gắn sao QS (tổ chức QS - Anh Quốc), SETARA (tài trợ bởi Bộ Đại học Malaysia), U-multirank (tài trợ bởi Uỷ ban châu Âu) hay UPM (tài trợ bởi Bộ Giáo dục đạo tạo, phát triển bởi các chuyên gia Đại học Quốc gia Hà Nội) là đang theo hướng này.

Đây là phương pháp đánh giá chất lượng 5 mức. Đối sánh chất lượng giáo dục khắc họa một bức tranh tích cực về chất lượng của các cơ sở GDĐH, mang thông tin hữu ích, nhiều chiều đến với người học, nhà tuyển dụng.

Hiện nay, xếp hạng gắn sao QS đang được thừa nhận là hệ thống kiểm toán (audit) 5 mức, còn UPM thì tích hợp sáng tạo cách tiếp cận phương pháp xếp hạng gắn sao của QS và kiểm định chất lượng của AUN-QA, với các tiêu chí đánh giá đối sánh khác nhau cho hai nhóm đại học theo định hướng nghiên cứu và ứng dụng.

UPM còn phân biệt cho các nhóm đại học rất đa dạng từ cơ sở GDĐH đa lĩnh vực đến riêng từng lĩnh vực khoa học tự nhiên, công nghệ kỹ thuật và khoa học xã hội, đồng thời bổ sung các tiêu chí, chỉ báo mới liên quan đến các xu thế giáo dục mới hiện nay như: nêu cao tinh thần khởi nghiệp, thúc đẩy đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, đào tạo các thể hoá và nuôi dưỡng các chuẩn mực xã hội… nên đang được nhiều cơ sở GDĐH lựa chọn để quản trị đồng thời cả chất lượng và thương hiệu; công khai chất lượng qua đánh giá độc lập của bên thứ ba.

Theo khuyến nghị của các chuyên gia QS, các bộ tiêu chuẩn đối sánh là công cụ KĐCLGD hiệu quả, cần được sử dụng thường xuyên, trước, trong và sau kiểm định.

- Xin trân trọng cảm ơn GS!

Hồng Hạnh
#