Cụ Bùi Bằng Đoàn: Từ cải cách tư pháp triều Nguyễn đến kiến tạo bản Hiến pháp đầu tiên
Sau những cải cách tư pháp đầy tâm huyết trên cương vị Thượng thư Bộ Hình triều Nguyễn, chính cụ Bùi Bằng Đoàn đã cùng Quốc hội Khóa I và Chủ tịch Hồ Chí Minh xây dựng nên Hiến pháp 1946, một bản Hiến pháp mẫu mực về dân chủ và quyền con người.
Nỗ lực cải cách bộ máy tư pháp triều Nguyễn
Sinh ra tại làng Liên Bạt, huyện Ứng Hòa, tỉnh Hà Đông (nay thuộc xã Ứng Thiên, thành phố Hà Nội), cụ Bùi Bằng Đoàn (1889 - 1955) xuất thân từ một gia đình khoa bảng có truyền thống Nho học lâu đời. Dòng họ Bùi vốn nổi tiếng với nhiều vị đỗ đạt cao và làm quan lớn, trong đó ông nội Cụ từng đỗ Thủ khoa, Tiến sĩ và giữ chức Tổng đốc Bắc Ninh; cha Cụ là một vị quan Tuần vũ. Chính truyền thống ấy đã hun đúc nên phẩm chất và chí hướng của Cụ từ thuở thiếu thời.
Năm 1906, khi mới 17 tuổi, Cụ đỗ Cử nhân trong kỳ thi Hương, cùng với hai người anh em trong họ là Bùi Bằng Phấn và Bùi Bằng Thuận tạo nên danh hiệu "Hà Đông tam bằng" vang danh một thời. Năm sau, Cụ vào học Trường Hậu bổ và tốt nghiệp Thủ khoa năm 1911, mở đầu cho một sự nghiệp làm quan đầy chính trực và cống hiến.

Từ năm 1913 - 1925, Cụ trải qua nhiều chức vụ Tri huyện, Tri phủ tại các địa phương. Dù ở đâu, Cụ cũng nổi tiếng là vị quan thanh liêm, gần dân, xử lý công việc công minh. Năm 1925, Cụ được triều đình cử vào Nam Kỳ để điều tra vụ bóc lột phu đồn điền cao su. Bản báo cáo hơn 100 trang bằng tiếng Pháp của Cụ đã vạch trần những sai trái và đề xuất các kiến nghị xác đáng để bảo vệ người lao động.
Cụ cũng nổi tiếng với vai trò thông ngôn tại phiên tòa xét xử chí sĩ yêu nước Phan Bội Châu. Bằng bản lĩnh và sự cương trực của mình, Cụ đã phiên dịch trung thực và hùng hồn những lời lẽ đanh thép của cụ Phan, góp phần khiến Tòa án Pháp không thể kết án chung thân mà phải giảm xuống hình thức "an trí ở Huế".
Tài năng và khí tiết của Cụ được triều đình và cả chính quyền bảo hộ công nhận. Cụ lần lượt giữ các chức Án sát, Tuần phủ, Chánh án Tòa án tỉnh Bắc Ninh - một vị trí vốn chỉ dành cho người Pháp. Từ tháng 5/1933, Cụ được bổ nhiệm làm Thượng thư Bộ Hình. Trên cương vị này, Cụ đã nỗ lực cải cách, chấn chỉnh bộ máy tư pháp, giữ gìn kỷ cương phép nước.
Trong 12 năm ở kinh đô Huế, Cụ trông nom việc xử kiện tại các tỉnh Trung Kỳ, chỉ đạo và tham gia việc soạn thảo các luật cho Trung Kỳ bằng tiếng Pháp, tiếng Việt và dịch ra chữ Hán, trong đó có bộ luật Hoàng Việt hộ luật (năm 1936), góp phần định hình hệ thống pháp lý thời bấy giờ.

Tại Khu lưu niệm Trưởng Ban Thường trực Quốc hội Bùi Bằng Đoàn, xã Ứng Thiên, Hà Nội, đang trưng bày ấn của cụ Bùi Bằng Đoàn - Thượng thư Bộ Hình triều Nguyễn và cuốn Hoàng Việt hộ luật - Bộ luật Dân sự áp dụng ở Trung kỳ, do Bộ Tư pháp và quan Cố vấn Bộ Tư pháp biên tập được ban hành bởi Nghị định của Toàn quyền Đông Dương ngày 21/10/1936. Đây là những hiện vật lưu giữ lịch sử một thời kỳ.
Dù làm quan dưới chế độ bảo hộ, Cụ Bùi Bằng Đoàn vẫn giữ vững khí tiết của một trí thức yêu nước, luôn đấu tranh cho công lý và quyền lợi của nhân dân.
Góp sức thông qua bản Hiến pháp đầu tiên
Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, cụ Bùi Bằng Đoàn trở về quê sống cuộc đời thanh bạch. Tuy nhiên, Chủ tịch Hồ Chí Minh - với tầm nhìn chiến lược - đã nhận ra ở Cụ một nhân sĩ có học vấn uyên thâm, đạo đức cao quý và uy tín lớn trong xã hội. Người đã đích thân viết thư mời cụ tham gia chính quyền cách mạng.
Lời mời ấy không chỉ là sự trân trọng mà còn khẳng định vai trò của trí thức trong công cuộc kiến thiết quốc gia. Cụ Bùi Bằng Đoàn đã nhận lời, đánh dấu bước chuyển mình từ một vị đại thần triều Nguyễn sang một trong những trụ cột của chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, tiếp tục cống hiến tài năng và tâm huyết cho sự nghiệp cách mạng.

Tháng 12/1945, cụ được bổ nhiệm làm Trưởng Ban Thanh tra đặc biệt của Chính phủ, giám sát hoạt động hành pháp trong giai đoạn đầu của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Tháng 1/1946, Cụ được bầu làm đại biểu Quốc hội tỉnh Hà Đông. Đến tháng 11/1946, Cụ được tín nhiệm bầu làm Trưởng Ban Thường trực Quốc hội - chức vụ tương đương Chủ tịch Quốc hội ngày nay.
Trên cương vị này, cụ Bùi Bằng Đoàn đã cùng các lãnh đạo Đảng và Nhà nước xây dựng nền móng pháp lý vững chắc cho chế độ mới, đặc biệt là góp phần vào việc thông qua Hiến pháp năm 1946 và hệ thống pháp luật đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Từ một vị quan thanh liêm trong triều đình phong kiến, cụ Bùi Bằng Đoàn đã đồng hành với Chủ tịch Hồ Chí Minh xây dựng chính quyền cách mạng, kiến tạo Hiến pháp đầu tiên, qua đó thể hiện sự dấn thân không ngừng nghỉ vì lợi ích của dân tộc.

