Bà Rịa – Vũng Tàu: Cho người thân mượn “sổ đỏ” để vay tiền, một gia đình đứng trước nguy cơ mất nhà, đất
Cho người thân mượn giấy chứng nhận quyền sử dụng đất để “làm tin” đi vay tiền, một hộ dân tại xã Châu Pha (TP. Phú Mỹ, Bà Rịa – Vũng Tàu) đứng trước nguy cơ mất nhà, đất.

Tòa án nhân dân (TAND) tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu đang xét xử phúc thẩm vụ án dân sự về “Tranh chấp yêu cầu tuyên vô hiệu hợp đồng ủy quyền, tặng cho và chuyển nhượng quyền sử dụng đất và kiện đòi tài sản”. Vụ việc liên quan đến nhà, đất thuộc thửa đất số 290, tờ bản đồ số 10, tọa lạc tại xã Châu Pha, thị xã Phú Mỹ (nay là TP. Phú Mỹ, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu), phiên tòa đã tạm dừng để các đương sự thỏa thuận một số vấn đề với nhau.
Trước đó, TAND thị xã Phú Mỹ đã xét xử sơ thẩm và ban hành Bản án số 19/2024/DS-DT ngày 3/5/2024. Nguyên đơn là vợ chồng Nguyễn Phước Nở và bà Huỳnh Thị Thúy Giang. Bị đơn: bà Võ Thị Bích Ngọc. Ngoài ra, còn có 9 cá nhân, tổ chức là người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan.
Theo hồ sơ vụ việc, tháng 8/2014, vợ chồng ông Nở được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (GCNQSDĐ) và tài sản khác gắn liền với đất số: BQ 686750 đối với thửa đất số 290 có diện tích 1.014m2.

Năm 2018, bà Nguyễn Thị Ánh Nhi (em ruột ông Nở) mượn giấy tờ nhà, đất của anh trai đi vay của bà Võ Thị Bích Ngọc 550 triệu đồng. Để “làm tin” cho khoản vay trên, ngày 25/6/2018, vợ chồng ông Nở đã ký Hợp đồng ủy quyền số công chứng 813 (Hợp đồng 813) về việc ủy quyền thửa đất trên cho bà Ngọc.
Hết thời hạn cho vay, ngày 1/8/2018, bà Ngọc tặng thửa đất trên cho chồng bà là ông Đoàn Minh Tân theo Hợp đồng tặng cho số 3717 (Hợp đồng 3717).
Tiếp đó, ngày 26/3/2019, ông Tân chuyển nhượng thửa đất trên cho ông Trần Đình Hảo theo Hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ số công chứng 1312 (Hợp đồng 1312), giá chuyển nhượng 900 triệu đồng.
Tháng 12/2019, ông Hảo đã thế chấp thửa đất trên cho ngân hàng để bảo đảm cho khoản vay 1,2 tỷ đồng.

Đến ngày 26/5/2020, ông Lê Hoàng Sơn, đại diện theo ủy quyền của ông Hảo đã thanh toán toàn bộ số nợ cho ngân hàng, thực hiện thủ tục giải chấp. Đồng thời, ông Sơn đã ký Hợp đồng chuyển nhượng số 1154 (Hợp đồng 1154) để chuyển nhượng thửa đất trên cho ông Nguyễn Văn Hiến và bà Nguyễn Thị Lan.
Sau đó, vợ chồng ông Nở khởi kiện yêu cầu TAND hủy bỏ các hợp đồng: Hợp đồng 813, 3717, 1312 và 0073, tuyên vô hiệu đối với Hợp đồng 1154… Vợ chồng ông Nở cũng yêu cầu ông Hiến, bà Lan trả lại toàn bộ giấy tờ thửa đất trên.

Tại bản án sơ thẩm, TAND thị xã Phú Mỹ nhận định, mục đích của Hợp đồng 813 (Hợp đồng ủy quyền thửa đất trên cho bà Ngọc) là để "làm tin" cho việc bà Ngọc cho vay số tiền 550 triệu đồng; không nhằm mục đích chuyển nhượng QSDĐ. Do đó, có đủ căn cứ xác định đây là giao dịch dân sự giả tạo nhằm che giấu giao dịch vay tài sản giữa bà Nhi và bà Ngọc. Đồng thời, ông Nở, bà Giang tuy bảo lãnh cho khoản vay của bà Nhi nhưng giữ các bên không thực hiện các trình tự thủ tục quy định về giao dịch bảo lãnh thế chấp nên giao dịch này cũng không có hiệu lực pháp luật…
Bản án sơ thẩm đã tuyên: Hợp đồng 813 giữa vợ chồng ông Nở và bà Ngọc đối với thửa đất số 290 là vô hiệu và Hợp đồng tặng cho số 3717 (bà Ngọc tặng thửa đất trên cho chồng là ông Đoàn Minh Tân), Hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ số công chứng 1312 (hợp đồng ông Tân chuyển nhượng thửa đất cho ông Trần Đình Hảo) là vô hiệu.
Tuy nhiên, Tòa cấp sơ thẩm không chấp nhận tuyên Hợp đồng 1154 (hợp đồng chuyển nhượng thửa đất từ ông Lê Hoàng Sơn cho ông Nguyễn Văn Hiến và bà Nguyễn Thị Lan) là vô hiệu; không chấp nhận yêu cầu buộc ông Hiếu, bà Lan trả lại toàn bộ giấy thửa đất số 290 cho vợ chồng ông Nở.
Tòa buộc bà Ngọc phải bồi thường cho ông Nở, bà Giang số tiền hơn 3,5 tỷ đồng; buộc vợ chồng ông Nở phải giao trả toàn bộ công trình kiến trúc có trên đất cho ông Hiến, bà Lan…

Vợ chồng ông Nở cùng bà Ngọc đã có đơn kháng cáo đối với bản án sơ thẩm.
Theo ông Nở, HĐXX cấp sơ thẩm tuyên như thế là quá thiệt thòi đối với vợ chồng ông. Bởi, các hợp đồng nêu trên tất cả đều thể hiện chỉ ủy quyền hoặc chuyển nhượng đối với thửa đất 290, không có bất kỳ nội dung nào thể hiện việc ủy quyền hoặc chuyển nhượng đối với công trình trên đất, gồm: 1 nhà cấp 4 (8x20m), công trình chuồng bò, hệ thống hàng rào trên đất.
Tài sản trên đất là tài sản được tạo lập hợp pháp của vợ chồng tôi; không có bất kỳ văn bản nào thể hiện sự thỏa thuận ủy quyền hay chuyển nhượng toàn bộ tài sản trên đất cho bên thứ ba.
“Hiện chúng tôi đang thương lượng để lấy lại nhà (tài sản trên đất) nhưng họ đòi tới hơn 1,6 tỷ đồng. Tòa đã tuyên Hợp đồng 813 và 2 hợp đồng tiếp là vô hiệu thì lẽ ra các bên liên quan tiếp theo sẽ phải trả lại cho nhau những gì đã nhận. Nhưng kết quả, Tòa lại tuyên tài sản thuộc về người nhận chuyển nhượng sau cùng. Tôi chỉ hy vọng cấp phúc thẩm đưa ra phán xét công tâm để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của vợ chồng tôi, hiện vợ chồng tôi đang đứng trước nguy cơ mất nhà”, ông Nở trình bày.