Vốn tài nguyên

TS. Đoàn Duy Khương 

Vốn tài nguyên tự nhiên bao gồm rừng, đất nông nghiệp, khí quyển, đại dương và tài nguyên khoáng sản. Nó cung cấp một số dịch vụ hệ sinh thái cần thiết cho sự sống còn của con người như thực phẩm, nước, năng lượng và nơi ở. Chiếm 20 - 55% tổng tài sản của các quốc gia, vốn tự nhiên là nhân tố đóng góp chính cho tăng trưởng kinh tế toàn cầu.

Ở Việt Nam, có thể điểm qua 3 nguồn lực tài nguyên chủ yếu.

Đất rừng và nông nghiệp: Việt Nam có xấp xỉ 70% dân số sống ở nông thôn và gần 90% tổng diện tích đất sử dụng để làm nông, lâm nghiệp. Việt Nam và đặc biệt, khu vực Tây Nam Bộ là trung tâm nông nghiệp của quốc gia nằm trong khu vực Tiểu vùng Sông Mekong Mở rộng (Greater Mekong Subregion - GMS) là khu vực địa lý bao gồm các quốc gia và lãnh thổ nằm trong lưu vực của sông Mekong: Việt Nam, Campuchia, Lào, Thái Lan, Myanmar và tỉnh Vân Nam và Quảng Tây của Trung Quốc.

Biển Đông, thềm lục địa: Việt Nam hiện nay với vị trí quan trọng bên biển Đông luôn là đối tác không thể thiếu trong các chương trình nghị sự của khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương. Việt Nam có bờ biển dài trên 3.260km trải dài từ Bắc xuống Nam và cứ 100km2 đất liền có 1km bờ biển. Trong 63 tỉnh, thành phố của cả nước thì 28 tỉnh, thành phố có biển và gần một nửa dân số sinh sống tại các tỉnh, thành ven biển. Đáng chú ý là vùng biển thuộc chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam chiếm diện tích khoảng 1.000.000km² biển Đông (gấp 3 lần diện tích đất liền) với khoảng 3.000 hòn đảo lớn, nhỏ và 2 quần đảo xa bờ là Hoàng Sa và Trường Sa, được phân bố khá đều theo chiều dài của bờ biển đất nước, với vị trí đặc biệt quan trọng như một tuyến phòng thủ tiền tiêu để bảo vệ sườn phía Đông của đất nước.

Việt Nam có bờ biển dài trên 3.260km trải dài từ Bắc xuống Nam và cứ 100km2 đất liền có 1km bờ biển. Ảnh: TTXVN
Việt Nam có bờ biển dài trên 3.260km trải dài từ Bắc xuống Nam và cứ 100km2 đất liền có 1km bờ biển. Ảnh: TTXVN

Đất hiếm: Hiện nay, Việt Nam có 4 loại khoáng sản có trữ lượng thuộc top 5 lớn nhất thế giới bao gồm: đất hiếm, bô xít, vonfram, fluorit. Trong đó, công bố năm 2022 của Cục Khảo sát địa chất Mỹ cho thấy, trữ lượng và tài nguyên đất hiếm ở Việt Nam đạt khoảng 22 triệu tấn, trị giá hiện khoảng 3.000 tỷ USD đứng thứ 2 thế giới. Đất hiếm là tài nguyên duy nhất có thể tạo ra chất bán dẫn, sản xuất chip.

Theo Cơ quan Khảo sát Địa chất Mỹ, đất hiếm gồm 17 loại vật chất có từ tính và tính điện hóa đặc biệt. Đất hiếm là một loại khoáng sản đặc biệt, nguyên tố đất hiếm có vai trò rất quan trọng và là vật liệu chiến lược đối với sự phát triển của các ngành kỹ thuật mũi nhọn, công nghệ cao như điện, điện tử, quang học, laser, vật liệu siêu dẫn, chất phát quang. 

Tuy nhiên, trong quá trình quản trị vốn tài nguyên của Việt Nam vẫn còn ba hạn chế lớn cần lưu ý.

Thứ nhất, nông nghiệp chỉ đóng góp khoảng 20% GDP do năng suất lao động thấp, thiếu đầu tư… Trong khi đó, các quốc gia phát triển như Anh, Pháp, Mỹ… chỉ có gần 5% dân số làm nông nghiệp nhưng lại đóng góp đến khoảng 40% GDP, không chỉ bảo đảm nhu cầu lương thực của đất nước mà còn có thể xuất khẩu với giá cao. Công nghệ phát triển theo mô hình logistics hiện đại là một trong những yếu tố quan trọng làm nên thành công đó.

Thứ hai, cách tiếp cận vốn tự nhiên của đại đa số dân chúng với nhận thức phổ biến rằng tài nguyên thiên nhiên là vô giá trị hoặc vô hạn chỉ vì chúng có sẵn miễn phí. Bên cạnh đó, dường như vẫn có quan niệm sai lầm rằng việc bảo vệ và đầu tư vào vốn tự nhiên là quá tốn kém và không góp phần nâng cao khả năng cạnh tranh và tăng trưởng kinh tế. Đặc biệt, khu vực nông, lâm nghiệp rất dễ bị tổn thương trước biến đổi khí hậu, nhất  là ở các vùng ven biển trũng thấp có vai trò quan trọng đối với nông nghiệp và thủy sản. Tất cả những hạn chế đã dẫn đến tình trạng khai thác quá mức tài nguyên và suy thoái môi trường trong dài hạn.

Thứ ba, do trình độ công nghệ và hạn chế về đầu tư cũng như nguồn nhân lực chất lượng cho công nghiệp chế biến khoáng sản và công nghệ cao nên Việt Nam trong quá khứ chủ yếu xuất khẩu khoáng sản thô đối với nhiều loại khoáng sản quý như than đá, dầu mỏ… Hiện nay, ngành bán dẫn của Việt Nam chưa phát triển mạnh mẽ và chưa thể là điểm tựa cơ bản cho việc tạo giá trị gia tăng tốt nhất cho việc khai thác đất hiếm. Do đó, Nhà nước cần nghiêm túc kiểm soát quá trình khai thác đất hiếm.

Để đạt được mục tiêu phát triển bền vững trong Chương trình Agenda 21 của quốc gia, Việt Nam cần đầu tư nhiều hơn vào việc bảo vệ và tăng cường trữ lượng vốn tự nhiên của mình thông qua việc đầu tư mạnh mẽ nghiên cứu sâu sắc thêm bốn lĩnh vực lớn:

Hợp tác GMS: Cần chủ động hợp tác với các nước GMS nhằm hợp tác và khai thác hiệu quả khu vực GMS vì lợi ích chung của toàn khu vực.

Zero carbon: Việt Nam đã cam kết đạt mức phát thải khí nhà kính ròng bằng "0" (gọi tắt là Net Zero) vào năm 2050. Việt Nam cần sớm có chiến lược và kế hoạch cụ thể nhằm hiện thực hóa tham vọng này. Ngoài ra, cần quy hoạch, quản lý tốt sử dụng đất và cấu trúc lại mô hình sản xuất kinh doanh trong ngành nông lâm nghiệp để nâng cao hiệu quả sử dụng đất đai. Áp lực gia tăng từ các quy định liên quan đến môi trường ngày càng khắt khe của các nước phát triển đang hối thúc Chính phủ cũng như doanh nghiệp phải nhập cuộc nhanh, mạnh mẽ hơn nữa trong chuyển đổi xanh và phát triển bền vững.

Biển Đông và kinh tế biển: Cần ứng dụng công nghệ cao để triển khai hiệu quả Nghị quyết số 36-NQ/TW về  Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 để tài nguyên “mặt tiền biển Đông” thật sự trở thành nguồn lực phát triển đất nước.

Chất bán dẫn: Xây dựng chiến lược phù hợp để phát triển các ngành công nghiệp bán dẫn trong bối cảnh hội nhập quốc tế tập trung vào hai lĩnh vực cốt lõi: (1) đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cho ngành bán dẫn; (2) xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật về bán dẫn để thúc đẩy sự phát triển và thu hút đầu tư.

Môi trường

Kinh nghiệm công nghệ cho Việt Nam trong xử lý rác thải
Môi trường

Kinh nghiệm công nghệ cho Việt Nam trong xử lý rác thải

Tại Tọa đàm “Tăng cường kiểm soát nguồn thải, quản lý chất thải rắn để cải thiện môi trường" do Báo Đại biểu Nhân dân tổ chức vào sáng 18.9, Viện trưởng Viện Công nghệ VinIT GS.TSKH Nguyễn Quốc Sỹ đã chỉ ra 5 nhóm công nghệ chủ chốt thế giới đang dùng để xử lý chất thải rắn, cùng các bài học kinh nghiệm về vấn đề xử lý rác trên thế giới. 

Biến rác thải thành nguồn lực thúc đẩy kinh tế tuần hoàn
Môi trường

Biến rác thải thành nguồn lực thúc đẩy kinh tế tuần hoàn

Luật Bảo vệ môi trường đổi mới phương thức quản lý chất thải rắn, coi chất thải là tài nguyên sau khi được phân loại để góp phần thúc đẩy kinh tế tuần hoàn. Vì vậy, việc đẩy mạnh xã hội hóa và thu hút đầu tư từ khu vực tư nhân, nước ngoài vào hoạt động thu gom, phân loại chất thải, tái chế, tái sử dụng chất thải, xử lý chất thải là cần thiết, biến rác thải thành nguồn lực cho phát triển bền vững kinh tế - xã hội.

Khuyến khích tư nhân đầu tư vào lĩnh vực xử lý chất thải
Môi trường

Khuyến khích tư nhân đầu tư vào lĩnh vực xử lý chất thải

Trong bối cảnh phát triển kinh tế tuần hoàn nhằm góp phần đạt được các mục tiêu phát triển bền vững vào năm 2030 và mục tiêu phát thải ròng bằng “0” cho đến năm 2050, Nhà nước cần có cơ chế ưu đãi, khuyến khích, tạo động lực cho các doanh nghiệp tư nhân đầu tư vào lĩnh vực xử lý chất thải.

Xã hội hóa ngành công nghiệp xử lý và tái chế rác
Xã hội

Xã hội hóa ngành công nghiệp xử lý và tái chế rác

Nhà nước không thể bao cấp hết trong khi ngân sách nhà nước có hạn, nền kinh tế chưa cho phép, do đó phải xã hội hóa ngành công nghiệp xử lý và tái chế rác. Ngoài ra, phải cân nhắc, lựa chọn công nghệ phù hợp với loại rác cần xử lý và công nghệ đó cần được cải tiến, phù hợp điều kiện của Việt Nam.

Phát sinh khoảng 60.000 tấn rác thải nhưng chỉ tái chế được 15%
Môi trường

Phát sinh khoảng 60.000 tấn rác thải nhưng chỉ tái chế được 15%

Phó Chủ tịch Hội Nước sạch và Môi trường Việt Nam, Tổng Biên tập Tạp chí Môi trường và Cuộc sống Nguyễn Văn Toàn nhận định, hiện tiềm năng phát triển của ngành công nghiệp tái chế là rất lớn. Tuy nhiên, trong khoảng 60.000 tấn rác thải phát sinh thì chúng ta chỉ có 15% được thu gom thái chế, sử dụng.

Hiệu quả xử lý rác đang rất thấp
Xã hội

Hiệu quả xử lý rác đang rất thấp

Tại tọa đàm “Tăng cường kiểm soát nguồn thải, quản lý chất thải rắn để cải thiện môi trường” do Báo Đại biểu Nhân dân tổ chức sáng 18.9, ông Nguyễn Quang Huân, Ủy viên Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường, Chủ tịch HĐQT Công ty Halcom Việt Nam nhấn mạnh hiệu quả xử lý rác trên thực tế hiện đang rất thấp.

Tăng cường quản lý chất thải rắn để cải thiện môi trường
Xã hội

Tăng cường quản lý chất thải rắn để cải thiện môi trường

Đây là nhấn mạnh của ông Nguyễn Hữu Tiến, Phó Chủ tịch Thường trực Hiệp hội Môi trường đô thị và khu công nghiệp Việt Nam, Chủ tịch Hội đồng thành viên Công ty Môi trường Đô thị Hà Nội Urenco tại Tọa đàm “Tăng cường kiểm soát nguồn thải, quản lý chất thải rắn để cải thiện môi trường”, do Báo Đại biểu Nhân dân tổ chức sáng 18.9.