An sinh xã hội- Cần giải pháp căn cơ, lâu dài
ĐBQH Vũ Thị Lưu Mai (Hà Nội) đề cập: Thứ nhất là về chính sách thu ngân sách, trong Báo cáo số 38 của Chính phủ đề ra giải pháp hạn chế tối đa việc lồng ghép các chính sách xã hội trong các chính sách thuế. Điều đó đồng nghĩa với việc trong 3 năm tới đây sẽ hạn chế tối đa việc miễn, giảm thuế. Cần hết sức cân nhắc giải pháp trên bởi hai lý do. Một là, việc bảo đảm tính trung lập của thuế là cần thiết, tuy nhiên, trong bối cảnh hiện nay thì điều đó là khó khả thi, kể cả khi chúng ta khống chế được dịch bệnh thì những hệ quả cũng còn kéo dài trong những năm tiếp theo. Hai là, căn cứ vào tình hình thực tế 3 năm qua 2019, 2020, 2021 trong chính sách tài khóa, việc miễn, giảm thuế đã được áp dụng liên tục như một giải pháp hữu hiệu và trong năm 2022 rất nhiều ý kiến đề xuất tiếp tục áp dụng. Nếu như tới đây Quốc hội ban hành gói kích thích phục hồi kinh tế thì dự kiến cũng có thể sẽ có những chính sách miễn, giảm thuế. Thời điểm hiện nay nên theo đuổi một chính sách khoan sức dân, nuôi dưỡng nguồn thu thông qua các biện pháp hỗ trợ và phát triển sản xuất kinh doanh sẽ là cần thiết và hợp lý hơn.
Vấn đề tiếp theo là khoảng cách giàu nghèo trong xã hội. Đã hơn hai năm kể từ ngày dịch bệnh bùng phát, kế sinh nhai cũng như việc làm của nhóm nghèo nhất xã hội đã bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Theo báo cáo của Chính phủ, nhóm bị tổn thương nhiều nhất là nhóm nghèo nhất, đánh giá của Ngân hàng Thế giới, tình trạng kiệt quệ về tài chính và khoảng cách giàu nghèo sẽ còn gia tăng nếu như chúng ta không có giải pháp hữu hiệu. Theo báo cáo của Tổng cục Thống kê năm 2016, khoảng cách thu nhập 9,8 lần thì đến năm 2019 đã tăng lên 10,2 lần, tuy nhiên trong năm 2020 con số đó giảm xuống còn 8 lần. Do đó, cần khảo sát, đánh giá thật chính xác thực trạng xã hội, nhìn thấy rõ nhất những khó khăn mà chúng ta phải đối mặt.
Đối với các gói an sinh xã hội, với mức hỗ trợ từ 2 đến 3 triệu/ người/ lần mang ý nghĩa động viên rất lớn nhưng đó chỉ là những giải pháp mang tính chất tình thế, không phải là giải pháp căn cơ lâu dài. Chỉ khi chúng ta có những giải pháp hữu hiệu để phát triển sản xuất kinh doanh, tạo công ăn việc làm cho người lao động thì mới có thể thu hẹp khoảng cách giàu nghèo.
Về thể chế và pháp luật. Trong dịch bệnh chúng ta nhìn thấy rõ nhất những thiếu hụt của hệ thống pháp luật liên quan, có những tình huống không có căn cứ pháp lý để xử lý dẫn đến áp dụng tùy tiện, thiếu thống nhất. Vì vậy, cần rà soát tổng thể để có một khuôn khổ pháp lý vững chắc, ổn định, đặc biệt là mang tính dự báo cao trong những năm tiếp theo.
Bàn về định hướng sắp tới, đại biểu đề xuất một số ý kiến như sau: Nếu như tới đây Quốc hội thông qua kế hoạch kích thích phát triển, phục hồi kinh tế với những biện pháp tiền tệ mạnh mẽ thì việc sửa đổi Luật Các tổ chức tín dụng là cần thiết. Thứ hai, sớm ban hành luật về xử lý nợ xấu. Hiện nay, tỉ lệ nợ xấu là khá cao, đến tháng 8 đã là 7,69 % và nếu như dịch bệnh kéo dài thì con số này còn cao hơn và chúng ta không thể lấy Nghị quyết 42 là Nghị quyết thí điểm để áp dụng ổn định lâu dài.
Thứ ba, cần rà soát, ban hành những quy định mang tính thống nhất về thẩm quyền ban hành các biện pháp chống dịch để kịp thời hạn chế tình trạng thiếu thống nhất trong xử lý giữa các địa phương như thời gian qua. Thứ tư, tạo lập một khuôn khổ pháp lý ổn định, vững chắc để huy động sức mạnh mạnh của hệ thống y tế tư nhân vào công cuộc phòng, chống dịch, khắc phục những thiếu hụt, hạn chế của hệ thống y tế công lập.
Cuối cùng, rất mong Chính phủ sớm ban hành Nghị quyết điều chỉnh chế độ, chính sách cho những người đang ở tuyến đầu phòng, chống dịch.
Tăng cường liên kết vùng để phát triển
Để thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội năm 2022, theo ĐBQH Nguyễn Minh Sơn (Tiền Giang) điều đầu tiên cần lưu ý đó là liên kết vùng. Thực tế, liên kết vùng còn lỏng lẻo, thể hiện rõ nhất là trong đợt dịch Covid-19 lần thứ 4, vừa qua. Sự lúng túng của các địa phương, cả hai vùng kinh tế trọng điểm phía Nam và đồng bằng sông Cửu Long trong “tâm bão dịch” vừa qua đã cho chúng ta một bài học sâu sắc. Nếu như các địa phương được liên kết chặt chẽ với nền tảng liên kết là cơ sở chia sẻ, điều phối nhân lực, vật lực, tài lực kịp thời thì có lẽ việc ứng phó dịch bệnh sẽ bớt đi những tình huống không đáng có. "Tất nhiên, thời điểm bùng phát dịch có nhiều lúc chúng ta phải chấp nhận việc địa phương ngày cách ly với địa phương khác, tuy nhiên, nếu đã có sự liên kết vùng chặt chẽ thì không lý nào các tỉnh, thành phố trong vùng lại không tạo ra được những luồng xanh liên kết về nông sản, hàng hóa, đi lại, chăm sóc y tế và hỗ trợ khác nhau nhằm an dân, trong đó có việc giữ chân người lao động". Bởi vậy, đại biểu Sơn đề nghị Chính phủ cần chỉ đạo quyết liệt hơn, hiệu quả hơn nữa trong việc xây dựng cơ chế quản lý, điều hành, phối hợp cụ thể, có tính pháp lý cao nhằm khắc phục những tồn tại, hạn chế thời gian qua và tạo điều kiện thúc đẩy phát triển liên kết vùng.
Một vấn đề nữa là theo số liệu của Hiệp hội Dịch vụ logistic Việt Nam, năm 2020, sản lượng container thông qua cảng biển đạt trên 22 triệu TEU với gần 700 triệu tấn hàng hóa. Tuy nhiên, đội tàu biển Việt Nam chỉ chiếm khoảng 7% thị phần vận tải, số còn lại nằm trong tay các hãng tàu nước ngoài. Để phấn đấu đạt mục tiêu đến năm 2025, tỷ trọng đóng góp của dịch vụ logistic vào GDP đạt 5 - 6%, tốc độ tăng trưởng dịch vụ logistic đạt 15 - 20%, chi phí logistic giảm xuống tương đương 16 - 20%, việc đẩy mạnh phát triển đội tàu container lớn phục vụ việc chuyên chở hàng hóa xuất nhập khẩu của Việt Nam bằng đường biển là yêu cầu hết sức cần thiết, cấp bách, nhất là thời gian qua, việc thiếu hụt vỏ container, giá cước vận tải biển tăng vọt đã ảnh hưởng nặng nề tới hoạt động xuất nhập khẩu và khả năng cạnh tranh của hàng hóa. Để phát triển đội tàu trọng tải cỡ lớn 50.000 đến 100.000 tấn có thể chuyên chở 4.000 đến 8.000 TEU thì cần phải thu hút nguồn vốn đầu tư lớn từ các thành phần kinh tế, thông qua việc nghiên cứu xây dựng, ban hành một số chính sách đặc thù như đấu thầu, chỉ định thầu giảm, miễn thuế, hỗ trợ tài chính trong giai đoạn đầu phát triển đội tàu, chính sách khuyến khích đào tạo sử dụng thuyền viên, chính sách khuyến khích hợp tác giữa các chủ tàu lớn, chủ hàng lớn.
Về các giải pháp hỗ trợ, ngày 19.10.2021, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành Nghị quyết 406 về một số giải pháp nhằm hỗ trợ doanh nghiệp, người dân chịu tác động của dịch Covid-19. Theo đó, kể từ ngày 1.11 đến hết ngày 31.12.2021, giảm thuế giá trị gia tăng đối với nhiều ngành dịch vụ là hợp lý vì sẽ gây hiệu ứng kích thích đến giá trị tăng thêm của nền kinh tế. Tuy nhiên, việc giảm giá trị gia tăng chỉ hai tháng có thể không đạt hiệu quả như mong muốn vì chu kỳ sản xuất của khu vực 1 là nông, lâm thủy sản và khu vực 2 là công nghiệp xây dựng có thể lâu hơn hai tháng. Do đó, đề nghị Chính phủ tiếp tục nghiên cứu, đánh giá tác động chính sách một cách kỹ lưỡng. Nếu Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho phép kéo dài thêm thời gian áp dụng đối với đối tượng này thì hiệu quả kinh tế mang lại sẽ cao hơn…
Các tỉnh có tiềm năng rất cần cơ chế, chính sách đặc thù để phát triển
Theo ĐBQH Đàng Thị Mỹ Hương (Ninh Thuận), đợt dịch Covid-19 bùng phát đã tạo ra sự chuyển dịch lao động lớn làm thiếu hụt lực lượng lao động phục vụ phục hồi sản xuất kinh doanh ở địa bàn đi nhưng xuất hiện tình trạng thất nghiệp của nhiều lao động ở địa bàn đến. Yêu cầu cấp thiết đặt ra là cần điều tra, khảo sát, nắm bắt đúng nguyện vọng, mong muốn, nhu cầu của người lao động và cần sớm ban hành các cơ chế, chính sách phù hợp, những hỗ trợ cần thiết để bảo đảm an sinh, để người lao động tái thiết cuộc sống, an tâm về vấn đề sức khỏe, nhà ở và môi trường việc làm. Từ đó kích thích người lao động quay trở lại làm việc tại các khu công nghiệp, khu chế xuất. Về lâu dài cần phải nghiên cứu, bố trí lại lao động trong nền kinh tế.
Theo đại biểu, cần tập trung tháo gỡ điểm nghẽn về thể chế, khơi thông nguồn lực đầu tư phát triển. Trước hết là cần phải rà soát, tháo gỡ giải quyết những kiến nghị đề xuất của các địa phương, nhất là những địa phương có khó khăn về nguồn lực đầu tư nhưng có tiềm năng, lợi thế, dư địa đặc thù. Đại biểu lấy ví dụ như tỉnh Ninh Thuận, một tỉnh có xuất phát điểm còn thấp, có điều kiện tự nhiên khắc nghiệt, nhưng đó cũng là lợi thế của tỉnh về năng lượng sạch, năng lượng tái tạo; rất dồi dào về điện mặt trời, mạnh về nắng và gió, đặc biệt là có cảng nước sâu Cà Ná có khả năng đón tàu có tải trọng trên 300 nghìn tấn. Đây cũng là điều kiện thuận lợi để tỉnh phát triển khí thiên nhiên hóa lỏng. Thời gian qua, tỉnh đã thu hút được nhà đầu tư lớn, chiến lược, đồng thời cũng nhờ có Nghị quyết 31/2016/QH14 của Quốc hội về dừng thực hiện chủ trương đầu tư dự án điện hạt nhân Ninh Thuận và Quốc hội cũng đã giao cho Chính phủ chú trọng phát triển nguồn năng lượng mới, năng lượng tái tạo nhằm hỗ trợ giúp đỡ tỉnh Ninh Thuận phát triển. Trên cơ sở đó Chính phủ cũng đã ban hành Nghị quyết 115/NQ-CP về việc thực hiện một số cơ chế, chính sách đặc thù hỗ trợ tỉnh Ninh Thuận phát triển, kinh tế xã hội ổn định, sản xuất, đời sống của nhân dân giai đoạn 2018 - 2023. Theo đó, Chính phủ đã chấp thuận chủ trương phát triển tỉnh Ninh Thuận thành trung tâm năng lượng tái tạo của cả nước, nghiên cứu phát triển tổ hợp điện khí, khí thiên nhiên hóa lỏng (LNG) Cà Ná. Nhờ đó trong hai năm qua, tỉnh Ninh Thuận đã vươn lên thành tỉnh có tốc độ tăng trưởng GRDP cao của cả nước. Có thể nói đây là một bước tiến vượt bậc. Rõ ràng, các tỉnh còn khó khăn nhưng có tiềm năng, lợi thế rất cần cơ chế, chính sách đặc thù để tạo động lực, thời cơ vươn lên phát triển.
Đại biểu đề nghị Quốc hội, Chính phủ sớm ban hành các quyết sách để thực hiện đảm bảo Nghị quyết 55-NQ/TW của Bộ Chính trị về định hướng chiến lược phát triển năng lượng quốc gia. Cần thực hiện đảm bảo giải pháp được quy định tại Nghị quyết 55 là đẩy nhanh tiến độ thực hiện thị trường điện cạnh tranh, có cơ chế hợp đồng mua bán điện trực tiếp giữa nhà sản xuất và khách hàng tiêu thụ, cơ chế đấu thầu đấu giá và đặc biệt là trong các dự án đầu tư năng lượng tái tạo, năng lượng mới; minh bạch giá mua bán điện, có cơ chế khuyến khích, thu hút vốn ngoài nhà nước để đầu tư xây dựng vào hệ thống truyền tải điện quốc gia.
Nâng cao hiệu lực, hiệu quả thực thi pháp luật
"Năm 2021 mặc dù gặp nhiều khó khăn, thách thức nhưng dưới sự lãnh đạo sát sao của Đảng, sự đồng hành từ sớm, từ xa của Quốc hội, sự chỉ đạo, điều hành chủ động, quyết liệt, linh hoạt của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, công tác xây dựng thể chế đã đạt được những kết quả tích cực. Cùng với việc đẩy mạnh xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật đồng bộ, toàn diện, công tác tổ chức thực thi pháp luật ngày càng được chú trọng. Việc ban hành văn bản quy định chi tiết đã có những chuyển biến tích cực, góp phần đưa luật, pháp lệnh, nghị quyết đi vào cuộc sống."- ĐBQH Nguyễn Thị Mai Phương (Gia Lai) phát biểu.
Đồng tình với mục tiêu năm 2022 đề ra trong Báo cáo của Chính phủ, đại biểu Nguyễn Thị Mai Phương cho rằng cần tiếp tục ưu tiên rà soát, hoàn thiện về thể chế và nâng cao hiệu lực, hiệu quả thực thi pháp luật. Đề nghị Chính phủ tập trung nghiên cứu, xây dựng các văn bản trong bản định hướng chương trình xây dựng pháp luật nhiệm kỳ Quốc hội Khóa XV theo đúng tiến độ, trong đó có các văn bản pháp luật liên quan đến đến việc chuyển đổi số.
“Điều này rất cần thiết khi hiện nay hầu hết các khuôn khổ pháp lý được quy định trong luật để phục vụ cho công việc chuyển đổi số còn rất hạn chế. Để thúc đẩy mạnh mẽ chuyển đổi số quốc gia, phát triển kinh tế số, xã hội hóa xã hội số, tạo bứt phá để nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế nhằm đạt được mục tiêu vào năm 2025 kinh tế số chiếm 20% GDP tỷ trọng kinh tế số trong từng ngành, lĩnh vực đạt tối thiểu 10 % thì rất cần thiết phải cập nhật, xây dựng một khuôn khổ pháp lý hoàn chỉnh”, đại biểu Nguyễn Thị Mai Phương nhấn mạnh.
Qua tiếp xúc, thu thập ý kiến cử tri, đại biểu Nguyễn Thị Mai Phương góp ý hai ý kiến.
Thứ nhất, ngày 31.10.2021 hết hạn biểu giá điện gió ưu đãi theo Quyết định 39 của Thủ tướng Chính phủ có 37/106 dự án điện gió đã đăng ký với 2355MW, tổng công suất chiếm 46% tổng công suất, không kịp hoàn thành. Dịch bệnh cùng với thiên tai có thể coi là một yếu tố bất khả kháng. Nhiều nhà đầu tư, các địa phương có dự án đã gửi nhiều văn bản tới Chính phủ, Bộ Công thương xin lùi thời hạn áp dụng giá ưu đãi cho điện gió xem đây là một giải pháp để phục hồi phát triển kinh tế sau đại dịch, tăng thu ngân sách, ổn định kinh tế vĩ mô.
Thứ hai, trong giai đoạn 2016-2020, Quốc hội đã quyết định chủ trương đầu tư nhiều công trình, dự án trọng điểm như dự án đường cao tốc phía Bắc - Nam phía đông, dự án đường sắt đô thị Hà Nội, TP Hồ Chí Minh, cảng hàng không quốc tế Long Thành nhưng đa phần đều chậm tiến độ, tăng tổng mức đầu tư, chất lượng đều chưa đạt yêu cầu, ảnh hưởng nhiều đến hiệu quả sử dụng vốn và nhất là chậm phát huy tác dụng.
Vì vậy, cử tri nhất trí với mục tiêu trong Báo cáo của Chính phủ là đẩy mạnh tiến độ xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại, nhất là một số công trình trọng điểm quốc gia. Cử tri Gia Lai mong mỏi tuyến cao tốc Pleiku-Quy Nhơn nối các tỉnh Tây Nguyên với các vùng duyên hải Trung Bộ, Cảng Quy Nhơn đã có trong quy hoạch được Chính phủ ưu tiên tập trung đầu tư để rút ngắn khoảng cách địa lý cùng với các tuyến đường Hồ Chí Minh, đường Trường Sơn Đông, Quốc lộ 19 tạo động lực trong phát triển kinh tế địa phương nói riêng và vùng Tây Nguyên nói chung.
Phân cấp, phân quyền mạnh mẽ cho chính quyền địa phương
Để tạo điều kiện cho một tỉnh, một vùng có thêm động lực phát triển kinh tế - xã hội nhằm đạt được các mục tiêu đã đề ra, theo ĐBQH Hồ Thị Kim Ngân (Bắc Kạn), cần một hệ thống cơ chế, thể chế hoàn chỉnh, thống nhất và phân cấp, phân quyền mạnh mẽ cho chính quyền địa phương, đặc biệt về các lĩnh vực đất đai, lâm nghiệp, đầu tư.
Tuy nhiên, qua thực tiễn cho thấy có những quy định thật sự là trở ngại cho địa phương trong quá trình phát triển. Cụ thể, Luật Lâm nghiệp quy định Hội đồng Nhân dân cấp tỉnh quyết định chủ trương chuyển mục đích sử dụng rừng phòng hộ dưới 20ha, rừng sản xuất dưới 50ha và không chuyển mục đích sử dụng rừng tự nhiên sang mục đích khác, trừ dự án quan trọng quốc gia, dự án phục vụ quốc phòng, an ninh, dự án cấp thiết khác được Chính phủ phê duyệt. Tại Nghị định số 83/2020/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 156/2018/NĐ-CP, Chính phủ phân công Thủ tướng Chính phủ quyết định chủ trương chuyển mục đích rừng tự nhiên đối với các dự án phục vụ quốc phòng, an ninh quốc gia, dự án cấp thiết khác quy định tại Khoản 2, Điều 14 Luật lâm nghiệp. Như vậy, việc quyết định chủ trương chuyển mục đích sử dụng rừng tự nhiên đối với các dự án thuộc thẩm quyền của Thủ tướng Chính phủ không phân biệt diện tích.
Đối với các tỉnh miền núi có diện tích rừng và đất rừng chiếm tỷ lệ lớn, quá trình thực hiện các dự án đầu tư phát triển kinh tế - xã hội, an ninh quốc phòng của tỉnh, đặc biệt là các dự án hạ tầng giao thông không tránh khỏi việc thực hiện chuyển mục đích sử dụng rừng sang mục đích khác, trong đó có rừng tự nhiên. Thời gian thực hiện thủ tục kéo dài qua nhiều bộ, ngành có liên quan tham mưu và trình Thủ tướng Chính phủ nên ảnh hưởng lớn đến tiến độ đầu tư, vượt thời gian thực hiện dự án theo quy định của Luật Đầu tư, Luật Đầu tư công.
Do vậy, để tạo điều kiện thuận lợi và chủ động cho địa phương, đại biểu đề nghị phân cấp, ủy quyền cho Hội đồng Nhân dân cấp tỉnh về nội dung này như sau: Đối với các công trình, dự án đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt quy hoạch giao Hội đồng Nhân dân tỉnh quyết định chủ trương chuyển mục đích sử dụng rừng tự nhiên sang mục đích khác không phân biệt quy mô diện tích. Đối với các công trình dự án khác giao Hội đồng Nhân dân tỉnh quyết định chủ trương chuyển mục đích sử dụng rừng tự nhiên dưới 20ha.
Cải cách thủ tục hành chính - Động lực thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội
ĐBQH Đỗ Đức Hồng Hà (Hà Nội) đồng tình và đánh giá cao chất lượng Báo cáo kinh tế xã hội của Chính phủ và Báo cáo thẩm tra của Ủy ban Kinh tế Quốc hội. Để hoàn thiện thêm, đại biểu đề nghị Chính phủ bổ sung và nhấn mạnh giải pháp quan trọng, động lực to lớn thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội, đó chính là cải cách thủ tục hành chính vì 7 lý do sau đây.
Thứ nhất, cải cách thủ tục hành chính tuy là một nội dung cuộc cải cách hành chính, nhưng là nội dung phản ánh rõ nhất mối quan hệ giữa nhà nước và công dân, đồng thời là nội dung có nhiều bức xúc nhất của người dân, doanh nghiệp cũng như có nhiều yêu cầu đổi mới trong quá trình hội nhập kinh tế và tham gia cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư.
Thứ hai, trong điều kiện nguồn lực đất nước còn nhiều khó khăn, Chính phủ chưa thể cùng một lúc thực hiện được nhiều nội dung cải cách như cải cách tài chính công, cải cách tiền lương, cải cách tổ chức bộ máy, thì việc lựa chọn cải cách thủ tục hành chính sẽ mang lại hiệu quả thiết thực nhất.
Thứ ba, thông qua thủ tục cải cách hành chính, có thể xác định căn bản các công việc của cơ quan nhà nước với người dân, doanh nghiệp, qua đó xây dựng bộ máy phù hợp và lựa chọn đội ngũ cán bộ, công chức hợp lý, vừa đáp ứng yêu cầu công việc, vừa đáp ứng yêu cầu của Đảng về tinh giản biên chế, co gọn đầu mối các cơ quan hành chính nhà nước.
Thứ tư, cải cách thủ tục hành chính là tiền đề để thực hiện 3 khâu đột phá chiến lược và các nội dung cải cách khác như nâng cao chất lượng thể chế, nâng cao trình độ, thay đổi thói quen, cách làm, nếp nghĩ của cán bộ, công chức. Phân cấp, phân quyền, phân công giải quyết công việc cho người dân, doanh nghiệp. Thực hiện Chính phủ điện tử Chính phủ số, kinh tế số, xã hội số, công dân số, doanh nghiệp số.
Thứ năm, thông qua cải cách thủ tục hành chính phải gỡ bỏ những rào cản đối với môi trường kinh doanh và đời sống của người dân, giúp cắt giảm chi phí và rủi ro mà người dân và doanh nghiệp phải gánh chịu, đồng thời tăng thu, giảm chi, nhất là giảm chi cho bộ máy hành chính và giảm chi cả chính thức và phi chính thức cho người dân và doanh nghiệp.
Theo báo cáo của Chính phủ, chỉ tính từ đầu nhiệm kỳ Quốc hội Khóa XIV đến nay, riêng việc cắt giảm 3.893/619 điều kiện kinh doanh, 6.776/9.926 danh mục hàng hóa phải kiểm tra chuyên ngành. Tổng chi phí xã hội đã tiết kiệm được hơn 18 triệu ngày công/năm, tương đương hơn 6.300 tỷ đồng/năm. Kết quả này càng có ý nghĩa hơn khi toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta đang tập trung nguồn lực trong phòng, chống đại dịch Covid-19.
Thứ sáu, cải cách thủ tục hành chính góp phần ngăn chặn 4 nguy cơ đe dọa sự tồn vong của Đảng ta và chế độ ta, nhất là nguy cơ tụt hậu về kinh tế, lạc hậu về văn hóa xã hội, tham nhũng, lãng phí nguồn lực, nâng cao hình ảnh của Việt Nam nói chung, các bộ, ngành, địa phương nói riêng trước cộng đồng trong nước và quốc tế. Đây là những giá trị vô hình nhưng có tác động to lớn đến việc phát triển kinh tế xã hội của đất nước, tác động tích cực đến đầu tư trong và ngoài nước, đến xuất nhập khẩu, việc làm và an sinh xã hội.
Thứ bảy, tuy nhiên, cải cách thủ tục hành chính trong thời gian qua vẫn còn hạn chế, yếu kém. Đó là tình trạng nhũng nhiễu, gây phiền hà của một bộ phận cơ quan hành chính nhà nước, một số cán bộ, công chức trong giải quyết công việc, thủ tục hành chính cho người dân, doanh nghiệp còn xảy ra. Còn hiện tượng yêu cầu thêm nhiều giấy tờ không được quy định trong bộ hồ sơ giải quyết các thủ tục hành chính tại một số cơ quan, đơn vị gây bức xúc cho người dân, doanh nghiệp. Tình trạng trễ hẹn trong giải quyết và chờ kết quả giải quyết hồ sơ vẫn còn phổ biến tại một số lĩnh vực.
Để phát huy vai trò quan trọng của cải cách thủ tục hành chính, khắc phục những hạn chế, yếu kém như đã nêu trên, đại biểu đề nghị Chính phủ bổ sung thêm và nhấn mạnh những giải pháp để phát triển kinh tế xã hội.
Nông dân còn chật vật tìm đầu ra
ĐBQH Phạm Văn Hòa (Đồng Tháp) đánh giá cao sự chỉ đạo, điều hành quyết liệt của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và cầu thị những hạn chế, thiếu sót trong thời gian qua. Đại biểu đề nghị thời gian tới, Chính phủ quan tâm một số vấn đề như sau:
Thứ nhất, tăng cường giải ngân vốn đầu tư công cùng lúc thực hiện tốt công tác chuẩn bị đầu tư và giao vốn đầu tư công, đẩy nhanh tiến độ thực hiện các dự án hạ tầng giao thông trọng điểm trong đó có đường cao tốc Trung Lương – Mỹ Thuận, Mỹ Thuận – Cần Thơ; đẩy mạnh cổ phần hóa và thoái vốn nhà nước tại các doanh nghiệp; quy trách nhiệm của người đứng đầu trong việc chậm cổ phần hóa thì mới có thể tiến trình cổ phần hóa thuận lợi. Bộ Giao thông, vận tải có quy hoạch chuyên ngành giao thông giai đoạn 2021 – 2025 cho vùng đồng bằng sông Cửu Long có một số đường cao tốc như Cần Thơ, Sóc Trăng, Cà Mau, Hà Tiên, Rạch Gía, Mỹ An,… nhằm giúp cho phát triển kinh tế xã hội của vùng. 20 triệu dân trong vùng đã rất phấn khởi, là tín hiệu lạc quan cho nhu cầu giao thông sau này sẽ rất phù hợp để phát triển nông nghiệp quy mô lớn cho vùng. Tuy nhiên, tốc độ phát triển giao thông hiện nay vẫn chưa đạt như kỳ vọng, rất mong Chính phủ có sự quan tâm, phân bổ vốn đầu tư cho các dự án này, làm việc với các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long. Trước mắt Thủ tướng Chính phủ cùng các bộ, ngành đã hứa đầu tư 2 tỷ USD vốn vay cho vùng và rất mong lời hứa trở thành hiện thực trong thời gian sớm nhất!
Về lĩnh vực nông nghiệp, cần chú trọng việc liên kết vùng và sự tham gia tích cực của doanh nghiệp và nông dân. Các địa phương có cùng điểm tương đồng và ngành hàng với nhau có thể liên kết với nhau thay vì bó hẹp ở từng địa phương, không gian phát triển vùng càng lớn thì quy mô kinh tế càng lớn hơn. Chính quyền kiến tạo, nông dân thực hành, doanh nghiệp đảm nhận vai trò dẫn dắt, tư vấn sản xuất theo hướng chất lượng sản phẩm, kết nối thị trường tiêu thụ, tăng giá trị kinh tế cao, từng bước chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi, phát triển công nghiệp chế biến sau thu hoạch thích ứng biến đổi khí hậu, dịch bệnh, giữ gìn vệ sinh và sinh thái bền vững mà vẫn bảo đảm an ninh lương thực lâu dài. Tuy nhiên, việc liên kết vùng ra sao, ai đứng ra liên kết thì chưa biết, giá cả mỗi nơi mỗi khác. Mặt khác, sự liên kết giữa doanh nghiệp và nông dân vẫn còn diễn ra tự phát, chưa có cầu nối từ nhà nước nên vẫn còn bấp bênh, hai bên chưa thông hiểu nhau. Đồng bằng sông Cửu Long chỉ có hơn 10% diện tích lúa được liên kết, 90% còn lại nông dân chật vật tìm đầu ra, thậm chí phải bán tháo để có chi phí trang trải cho mùa vụ. Với nền kinh tế thị trường, việc sản xuất nhỏ lẻ, manh mún thiếu sự hợp tác, thiếu tin tưởng nhau thì nền nông nghiệp nước ta khó lớn mạnh, sẽ đối mặt với rủi ro nhiều hơn khi có sự cố.
Ngành ngoại giao, ngành công thương cần tiếp cận thị trường nước ngoài, tư vấn cho nông dân để có nơi tiêu thụ nông sản thường xuyên. Trong điều kiện diện tích đất nông nghiệp ngày càng bị thu hẹp, độ phì nhiêu của đất cạn kiệt dần thì việc chuyển đổi tư duy sản xuất sang tư duy kinh tế hướng tới những giá trị xanh, tối ưu hóa giá trị gia tăng trên mỗi đơn vị diện tích canh tác là rất cần thiết. Áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật thay cho việc thâm canh tăng vụ để tăng sản lượng lương thực. Muốn được thế, việc thay đổi tư duy cho nông dân cần được trải nghiệm thực tế.
Một vấn đề cốt lõi nữa đó là mô hình hợp tác xã nông nghiệp. Nhiều năm qua, Nhà nước quan tâm rất nhiều đến hợp tác xã trên các lĩnh vực, từ tạo điều kiện ngân sách, cho thuê giám đốc và mặt bằng đào tạo, kiến tạo liên kết doanh nghiệp nông dân nhưng nhiều hợp tác xã vẫn ì ạch, loay hoay vốn, thị trường tiêu thụ hợp đồng bao tiêu. Xem ra lối ra còn vô vàn khó khăn. Sức mạnh mua chung, bán chung, giảm chi phí đầu vào, giảm thất thoát, chia sẻ rủi ro mùa vụ cho xã viên là rất cần cho mỗi hợp tác xã. Xác định mô hình hợp tác xã nông nghiệp là thiết chế kinh tế xã hội ở nông thôn, phải xem hợp tác xã là mô hình kinh tế không thể thiếu của mỗi xã, huyện đạt nông thôn mới. Cho nên các chính sách hỗ trợ phù hợp của Nhà nước góp phần tạo động lực cho hợp tác xã phát triển sâu rộng.
Về vấn đề thương lái trung gian trong việc tiêu thụ nông sản, lâu nay ngĩ rằng thương lái chèn ép nông dân nhưng thực tế thương lái là khâu tiêu thụ và đóng vai trò quan trọng trong việc lưu thông, phân phối hàng hóa. Do đó cần tạo điều kiện thuận lợi cho thương lái hoạt động rộng khắp, giúp thương lái có nguồn vốn để lưu động, lưu thông cũng chính là gián tiếp giúp nông dân tiêu thụ nông sản thuận lợi, giá cả hợp lý, đôi bên đều có lợi.
Đặt hàng doanh nghiệp trong nước phát triển các sản phẩm ưu tiên lĩnh vực: đường sắt, kinh tế biển, chuyển đổi số
Qua 4 tháng cách ly nghiêm ngặt để phòng chống dịch, GDP nước ta đã "rơi thẳng" đứng từ mức 6,61% ở quý II xuống -6,17% trong quý III. Hàng chục nghìn doanh nghiệp phải đóng cửa sau mỗi một tháng và hàng chục nghìn lao động phải trở về quê hương. Điều đó cho thấy sức chống chịu của nền kinh tế rất yếu, tiềm lực của các doanh nghiệp đang bị suy kiệt - ĐBQH Hoàng Văn Cường (Hà Nội) nhấn mạnh điều này và cho rằng để kinh tế Việt Nam không bị lỡ nhịp đà phục hồi kinh tế thế giới, các doanh nghiệp không chỉ cần thêm nguồn lực để phục hồi trở lại mà còn phải vượt lên, đặt chân vào khâu sản xuất có giá trị cao trong bối cảnh thế giới đang phân bổ lại chuỗi cung ứng.
Theo đại biểu, muốn các doanh nghiệp và nền kinh tế phải được tăng cường thêm các nguồn lực đầu tư theo hai hướng chính sau đây:
Thứ nhất, cần có chính sách cấp bù lãi suất để các doanh nghiệp được vay vốn với mức lãi suất tương đương tỷ lệ lạm phát, vì hoạt động kinh doanh sau đại dịch còn tiềm ẩn nhiều rủi ro, mức lợi nhuận khó để bù đắp các chi phí lãi vay cao như thị trường, trong khi các tổ chức tín dụng đang phải duy trì mức lãi suất để bảo đảm kinh doanh, đồng thời phải tăng cường trích lập các quỹ dự phòng rủi ro trong bối cảnh nợ xấu đang tiềm ẩn xu hướng gia tăng. Nếu ngân sách dành khoảng 30 - 40 nghìn tỷ đồng để cấp bù sẽ có được khoảng một triệu tỷ tiền vốn lãi suất thấp để các doanh nghiệp phục hồi. Tuy nhiên, kèm theo đó phải có cơ chế kiểm soát để tất cả các doanh nghiệp có nhu cầu vốn cho sản xuất kinh doanh phải được tiếp cận nguồn vốn vay giá rẻ, không để tiền vay ngân hàng "chạy vòng quanh", trở thành tiền gửi để kiếm lợi từ chênh lệch lãi suất. Hoặc không để tiền vốn giá rẻ sẽ đổ vào các lĩnh vực như bất động sản, chứng khoán.
Thứ hai, bên cạnh giải pháp kích cầu truyền thống, cần phải có các giải pháp mới mang tính khác biệt là đặt hàng để các doanh nghiệp trong nước đầu tư phát triển các sản phẩm ưu tiên, tạo nên những đột phá trong phát triển. Cụ thể, có ba lĩnh vực cần phải ưu tiên đặt hàng. Một là đường sắt. Những đô thị lớn nước ta đang rất cần phát triển các tuyến đường sắt đô thị, bên cạnh đó với địa hình đất nước kéo dài, tuyến đường sắt Bắc Nam cần phải phát triển. Chúng ta không thể cứ đi vay tiền về để thuê các nhà đầu tư nước ngoài xây dựng các tuyến đường sắt đô thị riêng lẻ. Hệ lụy không chỉ là những vướng mắc nhãn tiền như vừa qua mà đang để lại hậu quả lâu dài do tính không đồng bộ, thiếu khả năng kết nối và phải phụ thuộc lâu dài vào những nhà cung cấp nước ngoài. Nếu được Chính phủ đặt hàng và cam kết dành thị phần, các nhà đầu tư trong nước sẽ hợp tác hoặc mua lại công nghệ của nhà đầu tư nước ngoài kết hợp với các thành tựu của cách mạng công nghiệp 4.0, chúng ta sẽ có ngành công nghiệp đường sắt hiện đại của riêng mình.
Hai là kinh tế biển là lĩnh vực còn nhiều tiềm năng, chưa được khai thác. Chính phủ cần đặt hàng để hình thành nên các tổ hợp đầu tư pháp, triển công nghiệp hậu cần, vận tải biển, bắt tay kết nối với các cảng quốc tế bên bờ Thái Bình Dương để biến Vân Phong trở thành một trung tâm trung chuyển vận tải biển quốc tế có lợi thế không thua kém so với Singapore, và còn lợi thế hơn nhiều so với cảng khác ở khu vực Đông Bắc Thái Bình Dương. Đó không chỉ là tiền đề để khai thác tiềm năng kinh tế biển mà còn là cơ sở quan trọng để bảo đảm an ninh và chủ quyền trên biển Đông.
Ba là, để thực hiện thành công chuyển đổi số quốc gia và bứt phá vươn lên trong cách mạng công nghiệp lần thứ tư, cần có hạ tầng công nghệ số của riêng mình để đi trước trong chuyển đổi số và chủ động kiểm soát, bảo đảm an toàn cho tài sản số quốc gia. Nếu được Chính phủ đặt hàng, tôi tin rằng đội ngũ kỹ sư tin học và công nghệ Việt Nam thử sức phát triển được các sản phẩm để khẳng định được vị thế của Việt Nam trong lĩnh vực công nghệ số.
Có thể tăng trưởng 6 - 6,5% nhưng phải quyết tâm thật lớn
Theo ĐBQH Nguyễn Hữu Thông (Bình Thuận), 2021 là năm đầu tiên thực hiện kế hoạch 5 năm (2021 - 2025) nhưng đây là năm đặc biệt khó khăn trong phát triển kinh tế - xã hội bởi tác động của đại dịch Covid-19. Tăng trưởng 9 tháng đầu năm chỉ đạt 1,42% là mức thấp nhất trong 20 năm qua; riêng quý III tăng trưởng âm 6,17%. Tình hình kinh doanh và đời sống nhân dân gặp vô cùng khó khăn, nhất là ở các tỉnh bùng phát dịch bệnh, người dân trong khu cách ly, khu phong toả.
Tuy nhiên, cũng có những tín hiệu tốt, như thu ngân sách tăng so với cùng kỳ, kinh tế vĩ mô được duy trì ổn định, nông nghiệp tăng trưởng khá, xuất khẩu hàng hoá tăng so với cùng kỳ…. Với kết quả kiểm soát dịch bệnh tương đối ổn, hiện nay, doanh nghiệp quay lại hoạt động khá nhanh; cùng với những chính sách, giải pháp Chính phủ đã nêu trong báo cáo và trên nền tăng trưởng thấp của năm 2021 này, theo tôi mục tiêu tăng trưởng năm 2022 từ 6 - 6,5% có thể đạt được nhưng phải quyết tâm thật lớn từ trung ương đến địa phương.
Bên cạnh những giải pháp Chính phủ nêu trong báo cáo, đề nghị Chính phủ quan tâm chỉ đạo Ngân hàng Nhà nước, Bộ Tài chính, Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, Bộ Giao thông Vận tải và các bộ ngành liên quan khẩn trương ban hành văn bản hướng dẫn thực hiện miễn, giảm các loại thuế, phí, tiền điện, nước và các biện pháp đã nêu trong Nghị quyết 105/NQ-CP ngày 9.9.2021 của Chính phủ.
Cùng với đó, kiểm tra tiến độ và hiệu quả thực hiện chính sách hỗ trợ lãi suất ngân hàng, gia hạn nợ; miễn, giảm các loại thuế, phí, tiền điện, nước cho các doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh bị ảnh hưởng nặng bởi dịch bệnh; miễn, giảm, hỗ trợ liên quan đến bảo hiểm xã hội…
Đặc biệt, cần khẩn trương triển khai thật sớm Nghị quyết 406/NQ-UBTVQH15 ngày 19.10.2021 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội Quốc hội về ban hành một số giải pháp nhằm hỗ trợ người dân và doanh nghiệp chịu tác động của Covid19. Đại biểu đánh giá đây là Nghị quyết hết sức kịp thời của UBTVQH, cho thấy sự chủ động và đồng hành của Quốc hội với Chính phủ trong phòng chống dịch và phát triển kinh tế xã hội, trong bối cảnh hiện nay.
Báo cáo của Chính phủ cho biết cả năm 2021, tổng số tiền các cấp, các ngành thực hiện miễn giảm, gia hạn thuế, phí, tiền thuê đất… khoảng 118 nghìn tỷ đồng. Trong đó các khoản được gia hạn là 115 nghìn tỷ đồng; các khoản miễn giảm là 3 nghìn tỷ đồng, tương đương 2,5%. Khoản này theo đại biểu là quá thấp, chưa tương xứng với đóng góp của doanh nghiệp cho công tác phòng, chống dịch (ví dụ như doanh nghiệp ủng hộ 8.795 nghìn tỷ cho Quỹ Vaccine) và thiệt hại của doanh nghiệp trong đại dịch.
Đại biểu đề nghị Chính phủ và các địa phương cần có gói hỗ trợ cho doanh nghiệp lớn hơn, xem đây là nguồn đầu tư trở lại để giúp doanh nghiệp phục hồi sau đại dịch. Đại biểu cho rằng, nếu chúng ta bỏ một đồng cho doanh nghiệp, có thể tạo thêm công ăn, việc làm, doanh thu từ đó kích thích quá trình phục hồi kinh tế nhanh hơn. Quá trình đó, cần quan tâm đối tượng doanh nghiệp vừa và nhỏ, vì khu vực này chiếm tỷ lệ lớn nhất trong tổng số các doanh nghiệp hiện nay, là nơi có nhiều lao động nhất.
Cần tiếp tục tập trung giải quyết các vấn đề liên quan đến công nhân, người lao động
Trong bối cạnh dịch Covid-19 "tấn công" trực tiếp vào lực lượng công nhân lao động và các khu công nghiệp gây hậu quả hết sức nặng nề, hàng trăm ngàn doanh nghiệp ngừng hoạt động, nhiều triệu lao động mất việc làm phải ngừng việc, tạm hoãn hợp đồng nghỉ không lương, ĐBQH Nguyễn Phi Thường (Hà Nội) cho biết, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam đã kịp thời ban hành nhiều gói hỗ trợ đoàn viên, người lao động bị ảnh hưởng bởi dịch bệnh, hỗ trợ dinh dưỡng cho lực lượng tuyến đầu, hỗ trợ bữa ăn công nhân thực hiện 3 tại chỗ, một cung đường, hai điểm đến. Tặng sổ tiết kiệm cho con công nhân lao động mồ côi do dịch Covid-19, ủng hộ quỹ vaccine phòng chống dịch tiếp sức đồng bào vượt qua đại dịch với tổng số tiền hỗ trợ tính đến nay là hơn 6.000 tỉ đồng.
Đại biểu cho biết thêm, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam cũng kịp thời cho lùi đóng kinh phí, đoàn phí công đoàn với doanh nghiệp, đoàn viên khó khăn do Covid-19. Đội ngũ cán bộ công đoàn, đoàn viên các cấp cùng cán bộ chính quyền, đoàn thể cơ sở đi từng ngõ, gõ từng nhà, rà từng trường hợp. Tổ chức kịp thời các hoạt động an sinh, hỗ trợ công nhân lao động vượt khó khăn.
Nhiều mô hình sáng tạo trong công tác phòng, chống dịch và hỗ trợ đoàn viên, người lao động của tổ chức công đoàn ra đời. Phát huy hiệu quả được chính quyền, người lao động, người sử dụng lao động đánh giá cao. Công đoàn đã tích cực tham gia xây dựng, tuyên truyền, triển khai, giám sát thực hiện các gói hỗ trợ Chính phủ và các chính sách hỗ trợ từ các địa phương, cộng đồng xã hội và doanh nghiệp, gíup phần lớn người lao động giảm bớt khó khăn trong đại dịch, yên tâm ở lại doanh nghiệp sản xuất thực hiện ai ở đâu, ở đó, thực hiện giãn cách đội ngũ cán bộ công đoàn, công nhân lao động.
Tuy nhiên, từ thực tiễn phòng, chống dịch Covid-19 thời gian vừa qua cho thấy, Quốc hội, Chính phủ, các bộ, ngành, địa phương cần tiếp tục tập trung giải quyết nhiều vấn đề liên quan đến công nhân lao động, trong đó có một số vấn đề lớn.
Thứ nhất, dịch bệnh phát lộ đầy đủ hơn vấn đề vốn là bức xúc của công nhân lao động, đó là nhà ở. Số đông công nhân lao động di cư đang phải ở trong khu nhà trọ chật hẹp, ẩm thấp, san sát nhau, nguy cơ lây nhiễm bệnh tật, ô nhiễm môi trường, mất an ninh trật tự rất cao. Đại biểu đề nghị Quốc hội, Chính phủ sửa đổi, bổ sung chính sách pháp luật về nhà ở xã hội, trong đó tách riêng chính sách về nhà cho công nhân để thu hút đầu tư xây dựng, tạo cơ chế công đoàn là chủ thể tham gia xây dựng nhà ở xã hội cho công nhân. Có chính sách hỗ trợ thúc đẩy đầu tư xây dựng, cải tạo nhà ở cho công nhân lao động thuê mua. Ban hành quy định về tiêu chuẩn tối thiểu phòng trọ giúp công nhân an cư lập nghiệp cũng là góp phần xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam lớn mạnh, hiện đại.
Thứ hai, phần lớn công nhân không lao động thì cũng hết thu nhập, không thể duy trì cuộc sống sau khi doanh nghiệp ngừng hoạt động một vài tháng. Điều này cho thấy thu nhập của công nhân còn rất thấp, không có tích lũy hoặc tích lũy không đáng kể. Đề nghị Chính phủ tiếp tục có giải pháp thúc đẩy vấn đề tiền lương tối thiểu, đã hai năm liên tục ta chưa thể tăng lương tối thiểu vì dịch bệnh. Đẩy mạnh thu hút đầu tư phát triển bền vững, tăng cường trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp, các gói hỗ trợ người lao động của doanh nghiệp có những nội dung chưa khả thi, khó thực hiện việc triển khai có lúc chưa kịp thời. Đề nghị Quốc hội, Chính phủ tăng cường giám sát, kiểm tra việc thực hiện, đảm bảo tất cả gói hỗ trợ đều đến được với người lao động, hỗ trợ họ khắc phục khó khăn, sớm ổn định cuộc sống.
Thứ ba, đại dịch Covid-19 đang làm thay đổi cơ cấu ngành nghề trên thị trường lao động, phương thức quản trị doanh nghiệp, cách thức làm việc của người lao động. Để khôi phục sản xuất kinh doanh, tăng năng suất lao động, vấn đề sống còn là đào tạo, đào tạo lại, nâng cao kỹ năng nghề cho người lao động. Những năm qua, công tác này được quan tâm nhưng hiệu quả chưa cao, kỹ năng nghề của lao động Việt Nam còn ở mức rất thấp. Quốc hội, Chính phủ cần quan tâm hơn cả chính sách nguồn lực, đặc biệt là khâu tổ chức thực hiện. Cần đưa công đoàn là một chủ thể tham gia vào quá trình nâng cao trình độ tay nghề cho người lao động với các chính sách, nguồn lực cụ thể.
Thứ tư, trong bối cảnh hiện nay, Việt Nam cần phải có gói tài khóa đủ quy mô để phục hồi kinh tế, tập trung đầu tư củng cố hạ tầng, chú trọng vào hạ tầng, logistics, củng cố hệ thống y tế, hỗ trợ doanh nghiệp, hỗ trợ người lao động.
Cuối cùng, Nghị quyết 128/NQ-CP về thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch Covid-19 được ban hành kịp thời là bước tiến rất quan trọng. Tuy nhiên, việc triển khai thực hiện cần đảm bảo đồng bộ, linh hoạt, phù hợp tình hình địa phương, không thể buông lỏng, cũng không để có những rào cản cực đoan thái quá, sớm hồi phục quy trình sản xuất, tạo việc làm, khôi phục thị trường lao động.
Sớm ban hành chương trình tổng thể về phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội sau đại dịch
Theo ĐBQH Đặng Bích Ngọc (Hòa Bình), đồng hành cùng Chính phủ trong công tác phòng, chống dịch, Quốc hội kịp thời ban hành Nghị quyết số 30/2021/QH15 cho phép Chính phủ quyết định một số cơ chế đặc biệt, đặc thù đáp ứng yêu cầu cấp bách phòng, chống dịch. Trước yêu cầu của tình hình thực tiễn, Chính phủ đã ban hành nhiều văn bản chỉ đạo quyết liệt công tác phòng, chống dịch như Nghị quyết số 128/NQ-CP với chủ trương thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả chống dịch Covid-19; triển khai quyết liệt, kịp thời các gói hỗ trợ về an sinh - xã hội; tập trung tìm kiếm, mua, kêu gọi tài trợ và tiêm vaccine, góp phần nâng tỷ lệ bao phủ vaccine trong cả nước, với quyết tâm thực hiện phương châm “vaccine tốt nhất là vaccine được tiêm sớm nhất”. Đây là những quyết sách đúng đắn, là nền tảng quan trọng để phục hồi kinh tế những tháng cuối năm 2021 và năm 2022.
Bên cạnh kết quả đã đạt được, Chính phủ cũng thẳng thắn chỉ ra những tồn tại hạn chế, nguyên nhân chưa đạt được so với chỉ tiêu, Nghị quyết đề ra. Còn 4/12 chỉ tiêu không đạt. Công tác phòng, chống dịch vẫn còn tình trạng lơ là, chủ quan, mất cảnh giác, một số nơi còn có tình trạng đùn đẩy, sợ trách nhiệm nên chưa lãnh đạo, chỉ đạo quyết liệt, kịp thời. Kinh tế vĩ mô tiềm ẩn nhiều rủi ro, chưa thực sự vững chắc; do ảnh hưởng của dịch bệnh, một lượng lớn người lao động mất việc làm, đời sống người dân gặp nhiều khó khăn. Cử tri và Nhân dân rất lo lắng việc nhiều người trở về từ các vùng bị ảnh hưởng của dịch bệnh sẽ là nguy cơ của làn sóng dịch lần thứ 5.
Để kiềm chế lạm phát, thực hiện tốt mục tiêu, nhiệm vụ những tháng cuối năm 2021 và năm 2022 trong khi sức chống chịu và nguồn lực của Nhà nước, doanh nghiệp và người dân giảm sút, đại biểu đề nghị quan tâm một số nhiệm vụ sau:
Một là, đề nghị Quốc hội, Chính phủ sớm ban hành Chương trình tổng thể về phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội sau đại dịch; sớm quyết định các gói hỗ trợ tài chính, thúc đẩy doanh nghiệp, người dân đầu tư phục hồi, phát triển kinh tế - xã hội; không để đứt gãy chuỗi cung ứng tạo đà vươn lên vượt qua giai đoạn khó khăn, thời gian thực hiện đến hết năm 2024.
Hai là, qua tiếp xúc cử tri, Nhân dân mong muốn và đề nghị Chính phủ chỉ đạo các Bộ, ngành kịp thời hoàn thành các thủ tục hành chính để phân bổ nguồn vốn thực hiện 3 chương trình mục tiêu quốc gia trong năm 2022.
Ba là, đề nghị Quốc hội, Chính phủ tiếp tục rà soát các quy định của pháp luật hiện hành theo hướng đẩy mạnh việc phân cấp, phân quyền cho địa phương trong các lĩnh vực quản lý đất đai, xây dựng, quản lý bảo về rừng, thủ tục đầu tư… trên cơ sở quy hoạch, kế hoạch đã được Trung ương phê duyệt. Đồng thời, tiếp tục cải cách hành chính, trong đó tập trung rút ngắn thời gian thực hiện thủ tục hành chính, phân cấp cho địa phương. Cụ thể với trường hợp của tỉnh Hòa Bình, thủ tục trả lại hồ Đầm Bài cho địa phương để khai thác làm hồ thủy lợi theo đúng mục đích khi xây dựng hồ và áp dụng các biện pháp để bảo đảm tuyệt đối an toàn nguồn nước cung cấp cho nhà máy nước Sông Đà, đã được tỉnh và nhà đầu tư báo cáo và được Thủ tướng Chính phủ đồng ý, nhưng thời gian kéo dài cả nhiệm kỳ khóa XII đến nay vẫn chưa xong. Sớm phân cấp cho địa phương được điều chỉnh quy hoạch cục bộ, quy hoạch phân khu trong quy hoạch đô thị.
Bốn là, đề nghị Quốc hội, Chính phủ ban hành thêm cơ chế, chính sách để thúc đẩy nhanh quá trình thực hiện Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa, trong đó trọng tâm là: thí điểm các giải pháp, chính sách để thúc đẩy các mô hình kinh doanh mới dựa trên đổi mới sáng tạo, kinh tế số theo hướng khuyến khích việc ứng dụng các nền tảng công nghệ trong hoạt động của cả doanh nghiệp và cơ quan nhà nước. Đề nghị sớm sửa đổi Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp theo hướng cho phép các doanh nghiệp nhỏ và vừa có doanh thu 3 tỷ đồng/năm trở xuống được lựa chọn hình thức nộp thuế thu nhập doanh nghiệp ở mức 2-3% tính trên doanh thu cả năm.
Năm là, để sớm thông tuyến Cao tốc Hà Nội - Hoà Bình - Sơn La giai đoạn 2021- 2025, cử tri và Nhân dân khu vực Tây Bắc kiến nghị Quốc hội, Chính phủ bổ sung nguồn vốn đầu tư công để triển khai, đoạn còn lại là Hòa Bình - Mộc Châu (km19 - km54) trong giai đoạn 2021 - 2025 nhằm góp phần thúc đẩy và phục hồi kinh tế vùng Tây Bắc sau đại dịch.
Để chuyển đổi số trở thành một động lực mới của tăng trưởng
ĐBQH Phạm Trọng Nhân (Bình Dương) nêu vấn đề: Chuyển đổi số để hình thành xã hội số, kinh tế số với nền tảng là cơ sở dữ liệu, trở thành một động lực tăng trưởng có nghĩa nó cũng là công cụ đắc lực quản trị quốc gia. Tuy nhiên, chuyển đổi số với công nghệ nền tảng phải được thực hiện thế nào để không những đem lại hiệu quả cho quản trị mà còn bảo đảm an ninh con người, an ninh chính trị, an ninh kinh tế khi nền tảng Google, Facebook và gần đây là Tiktok tưởng chừng hỗ trợ cho tăng trưởng nhưng lại đang âm thầm theo dõi, định hướng, can thiệp, chế tác lại hành vi người dùng.
Nhìn vào giá trị vốn hóa của Google, Facebook, câu hỏi đại biểu Phạm Trọng Nhân đặt ra, đó là các nền tảng này có thực sự nhân văn, miễn phí vô điều kiện hay thông qua đó là một loại tư liệu sản xuất mới ra đời và đó là hành vi dùng? Không lạ gì khi tìm trên Google một tựa đề một quyển sách thì trên màn hình có rất nhiều quảng cáo những quyển sách tương tự dần được hiện ra. Có thể thấy “những điều thầm kín, riêng tư của người dùng bị mở toang trước từng cái bấm chuột. Niềm tâm thức thiêng liêng của con người đã bị xâm lăng bởi các thuật toán này…
Không thể phủ nhận những tích cực từ nền tảng số, nhưng điều đại biểu Phạm Trọng Nhân đặt ra, đó là thử hỏi tăng cường GDP từ nền tảng số có dễ dàng không khi mà an ninh mạng phi truyền thống vẫn còn là một ẩn số và các nền tảng công nghệ không được sản sinh để làm chủ từ chính quốc gia này? Chúng ta làm gì để giữ vững chủ quyền số quốc gia, mà Đại hội Đảng lần thứ XIII đã chỉ rõ, nếu chúng ta tập trung sửa đổi Luật An ninh mạng, Luật An toàn thông tin mạng nhằm bảo vệ thông tin hoặc quyền riêng tư cũng chỉ là bước đầu. Để định hình một xã hội số với những công dân số để phát triển kinh tế số thì quản lý xã hội trong đời thực thế nào đòi hỏi chúng ta cũng phải định hình để thể chế được quản lý công dân trên xã hội số như thế. Quản trị quốc gia gắn liền với chuyển đổi số sẽ không thể mang hết ích lợi, hiệu quả cho nhà nước và người dân để trở thành một động lực mới của tăng trưởng nếu chúng ta không có những ứng phó kịp thời trước các nền tảng mà mục đích của chúng được chủ nghĩa tư bản này tô vẽ những mỹ từ như kết nối và chia sẻ toàn cầu ở góc độ nào đó, đại biểu Phạm Trọng Nhân cảnh báo.
Căn cơ hơn nữa trong xây dựng dự toán ngân sách năm 2022
Trong điều kiện ngân sách còn có hạn, ngoài nhiệm vụ chi phòng, chống dịch còn dành nguồn lực để phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội, ĐBQH Nguyễn Thành Trung (Yên Bái) đề nghị, trong xây dựng dự toán ngân sách nhà nước 2022, cần căn cơ hơn nữa, bảo đảm thu đúng, thu đủ, tránh để thất thoát nguồn thu.
Bên cạnh đó cần, nghiên cứu các biện pháp đổi mới cách thức thực hiện cổ phần hóa, thoái vốn nhà nước tại doanh nghiệp, nhất là các biện pháp liên quan đến xác định giá trị tiền sử dụng đất, tài sản cố định, thương hiệu, giá trị truyền thống của doanh nghiệp cổ phần hóa để bảo đảm hoàn thành mục tiêu đề ra. Bên cạnh đó, cần tiếp tục đẩy mạnh cắt giảm các khoản chi chưa thực sự cần thiết để dành nguồn lực cho y tế và công tác phòng, chống dịch. Xây dựng chính sách tài khóa hỗ trợ có mục tiêu và duy trì chính sách tiền tệ phù hợp, tạo lực đẩy tổng hợp đủ lớn giúp các doanh nghiệp, người dân duy trì và phát triển hoạt động kinh doanh, đồng thời giám sát chặt chẽ rủi ro, ổn định tài chính trong bối cảnh dịch bệnh còn tiếp diễn.
Để có thêm nguồn lực cho ngân sách, ĐBQH Nguyễn Thành Trung cũng đề nghị, Chính phủ khẩn trương nghiên cứu trình Quốc hội sửa đổi Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt, trong đó, đề nghị tăng mạnh thuế tiêu thụ đặc biệt đối với mặt hàng thuốc lá và đồ uống có cồn. Bởi việc tiêu dùng thuốc lá, đồ uống có cồn có thể gây ra những gánh nặng về bệnh tật, tử vong và kinh tế ở cả cấp độ hộ gia đình và quốc gia. Theo số liệu của Tổ chức Y tế thế giới, Việt Nam có trên 15 triệu người hút thuốc với số lượng tiêu thụ hàng năm khoảng hơn 4 tỷ bao. Mỗi năm xã hội phải bỏ ra khoảng 31.000 tỷ đồng để mua và khoảng 24.000 tỷ đồng để dành cho các chi phí y tế liên quan đến thuốc lá. Nguyên nhân chính là do mức giá và thuế thuốc lá của Việt Nam ở mức thấp so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Năm 2019, giá trung bình một bao thuốc nhãn hiệu phổ biến nhất tại Việt Nam khoảng 20.000 đồng/bao, mức giá này thấp hơn nhiều so với giá trung bình ở các quốc gia khác và Việt Nam nằm trong số các quốc gia có giá thuốc lá thấp nhất trên thế giới. Để đạt được hiệu quả giảm tiêu dùng thuốc lá và tăng thu ngân sách, cần thay đổi chính sách về thuế đối với thuốc lá theo hướng bổ sung thuế tuyệt đối cùng với thuế tương đối đang áp dụng để chuyển sang hệ thống thuế hỗn hợp với mức đủ lớn. Cụ thể, nếu áp dụng mức thuế tuyệt đối 5.000 đồng/bao, bên cạnh thuế suất tỷ lệ là 75% đang áp dụng sẽ giúp giảm đáng kể số lượng người hút thuốc, đồng thời thu ngân sách nhà nước tăng khoảng 14.000 tỷ đồng/năm.
Đối với đồ uống có cồn, hiện nay tiêu dùng bia, rượu ở Việt Nam vẫn tiếp tục gia tăng, đặc biệt là trong giới trẻ, ảnh hưởng lớn đến y tế, kinh tế. Hiện giá rượu, bia cũng rất rẻ, sức mua tăng mạnh do thu nhập tăng nhanh trong khi giá rượu, bia tăng rất chậm. Tăng thuế để tăng giá các mặt hàng bia, rượu đã được chứng minh có tác động mạnh đến giảm nhu cầu sử dụng, đặc biệt là người tiêu dùng có thu nhập thấp và thanh thiếu niên sẽ giảm sử dụng nhiều hơn khi thuế và giá rượu tăng. Theo tính toán của các tổ chức khoa học, nếu tăng thuế tiêu thụ đặc biệt đối với bia và rượu từ mức 6% hiện nay lên mức 85% thì lượng tiêu thụ sẽ giảm khoảng 150 triệu triệu lít bia và khoảng 3 triệu lít rượu, đồng thời thu ngân sách nhà nước tăng thêm khoảng 10.000 tỷ đồng. Do vậy, với việc tăng thu thuế thu nhập đặc biệt với thuốc lá và đồ uống có cồn sẽ góp phần để Việt Nam đạt được mục tiêu kép, vừa nâng cao sức khỏe nhân dân, đặc biệt là giới trẻ, tương lai của đất nước, vừa tăng thu cho ngân sách nhà nước.
Cần xác định lộ trình sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện thể chế, pháp luật về phòng, chống dịch
Nêu nghịch lý, khi tháng 10.2020 đồng bào miền Trung đối mặt với bão chồng bão, lũ chồng lũ khiến đời sống nhân dân ở vùng sâu, vùng xa đã khó lại càng khó khăn thêm thì Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 vẫn nằm im với 16.000 tỉ đồng, chưa giải ngân được đồng nào. ĐBQH Hà Sỹ Đồng (Quảng Trị) cho rằng, có những khó khăn không hẳn do Covid-19 mà là do những hạn chế, yếu kém từ nhiều năm cần được khắc phục.
Đại biểu cho rằng, việc chậm triển khai Chương trình mục tiêu quốc gia ảnh hưởng rất lớn đến các đối tượng được thụ hưởng chính sách cũng như tốc độ phát triển kinh tế của đất nước. Thực tế, nếu mọi quyết sách lớn từ Quốc hội được thực thi nghiêm túc thì chắc chắn tác động tiêu cực của đại dịch Covid-19 sẽ ít nhiều giảm bớt.
Đại biểu cho biết, hiện nay có ba vấn đề kiến các đại biểu và cử tri địa phương vô cùng sốt ruột. Thứ nhất, về báo cáo phòng, chống dịch của Bộ Y tế chưa đầy đủ, đặc biệt phần thực hiện Nghị quyết 30/2021/QH15 giống như báo cáo của riêng ngành y tế hơn là đánh giá việc thực hiện một nghị quyết chưa từng có tiền lệ của Quốc hội. Trong khi thực tế có quá nhiều vấn đề cần được xem xét thấu đáo để có thể ứng phó linh hoạt, chủ động, hiệu quả hơn với dịch bệnh và phục hồi kinh tế.
Các Ủy ban của Quốc hội cũng nhấn mạnh rằng, đến thời điểm hiện tại Chính phủ, các Bộ, ngành hữu quan vẫn chưa có đánh giá một cách tổng thể các vấn đề liên quan đến công tác hoàn thiện thể chế, pháp luật về phòng, chống dịch. Chưa xác định đầy đủ lộ trình, kế hoạch sửa đổi, bổ sung các luật, pháp lệnh, nghị quyết có liên quan như Luật Phòng, chống bệnh truyền nhiễm, Luật dược, Pháp lệnh về tình trạng khẩn cấp. Vậy câu hỏi đặt ra là đến khi nào việc này được bắt đầu? Nếu các cơ quan thuộc Chính phủ không chủ động, thì Quốc hội cần làm gì để thúc đẩy quá trình này?
Thứ hai, về các giải pháp khắc phục, phục hồi kinh tế từ Kỳ họp thứ Nhất, Quốc hội Khóa XV đến nay, đặc biệt là trước thềm kỳ họp này, nhiều doanh nghiệp và đại biểu đều quan tâm đến gói kích thích kinh tế đủ mạnh nhưng vẫn phải đảm bảo an ninh tài chính quốc gia. Bộ trưởng Bộ Tài chính cho biết, gói hỗ trợ lãi suất khoảng 20.000 tỷ một năm và phát hành công trái huy động ngoại tệ trong nước. Theo quan điểm của đại biểu, chỉ có gói hỗ trợ lãi suất là khả thi vì doanh nghiệp đang đói vốn, nay được tiếp cận nguồn vốn giá rẻ, giảm được 2-3 % so với mức vay thương mại hiện hành 6 - 10 % sẽ có động lực để khôi phục sản xuất và kinh doanh.
Thứ ba, về điện gió là năng lượng sạch và thân thiện với môi trường, phát triển bền vững cả về kinh tế xã hội và môi trường. Cả thế giới đang hướng đến rất khuyến khích để thu hút đầu tư và phải có chính sách bền vững và chia sẻ đối với nhà đầu tư. Thời gian qua cộng đồng doanh nghiệp điện gió và các địa phương kiến nghị Quốc hội, Chính phủ cho phép lùi thời hạn áp dụng giá FIT thêm 6 tháng, 1 năm đối với các dự án đã thi công chậm, tiến độ giao dịch, có việc 19 và cả khó khăn khác là có cơ sở. Đề nghị Quốc hội, Chính phủ cần quan tâm giải quyết sớm vấn đề này.
Đối với Quảng Trị, đề nghị Chính phủ tạo điều kiện cho khởi công dự án Trung tâm điện khí LNG Hải Lăng giai đoạn 1 có công suất phát điện 1.500MW để làm tiền đề cho Công ty năng lượng Eni Việt Nam thuộc Tập đoàn năng lượng Eni Italia đẩy nhanh tiến độ khai thác mỏ Kèn Bầu dự kiến giai đoạn 2026-2030, góp phần bảo vệ chủ quyền, an ninh biển đảo.
Đại biểu nhấn mạnh, trong bối cảnh sức khỏe của nền kinh tế đã bị bào mòn bởi đại dịch thì mọi giải pháp lúc này đều không thể cầu toàn, nhưng hơn lúc nào hết cần được tính toán kỹ lưỡng về tính khả thi và được giám sát chặt chẽ để thực thi hiệu quả nhất. Tránh tình trạng chính sách ban hành kịp thời nhưng đối tượng được thụ hưởng khó tiếp cận hoặc mất quá nhiều thủ tục mới tiếp cận được.
Thúc đẩy phát triển nông nghiệp công nghệ cao
Nhấn mạnh lĩnh vực nông nghiệp được xem là bệ đỡ cho kinh tế xã hội của nước ta trong những năm qua, tuy nhiên, ĐBQH Bùi Xuân Thống (Đồng Nai) cho rằng, cơ cấu nông nghiệp và phát triển không đồng đều, các giải pháp thực hiện liên kết giữa các nhà, mở rộng thị trường chưa thực sự hiệu quả, nguồn vật tư, nguyên liệu phục vụ cho sản xuất trong lĩnh vực nông nghiệp phụ thuộc rất nhiều vào bên ngoài...
Dù là nước sản xuất và xuất khẩu lương thực nằm ở top đầu thế giới, song ngành sản xuất thức ăn chăn nuôi nước ta vẫn phải nhập 70-80% nguyên liệu từ nước ngoài. Nguyên nhân là do các loại nguyên liệu sản xuất thức ăn như ngũ cốc, đậu tương, khô, dầu các loại phụ gia hiệu Việt Nam sản xuất không đủ hoặc giá thành quá cao so với sản phẩm nhập khẩu cùng loại.
Do đó, đại biểu kiến nghị Chính phủ, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cần thực hiện các giải pháp mạnh mẽ để thúc đẩy phát triển nông nghiệp công nghệ cao, giảm bớt sự phụ thuộc đầu vào nông nghiệp từ thị trường bên ngoài, bảo đảm sự ổn định, bảo vệ và phát triển ngành nông nghiệp trong nước, tăng khả năng cạnh tranh để người nông dân làm giàu trên chính mảnh đất của mình...
Vaccine quan trọng nhất là tinh thần trách nhiệm
Đại biểu Nguyễn Anh Trí (TP. Hà Nội) cho rằng, chúng ta đã chống dịch bằng 5K, bằng vaccine, bằng công nghệ, bằng thuốc nhưng có một loại vaccine quan trọng nhất đó là tinh thần trách nhiệm đối với sức khỏe chính cá nhân mình, vì sự an toàn của cộng đồng. Đó là loại vaccine xã hội cần thiết nhất, giá trị nhất mà ai cũng đang có nên xin hãy dùng ngay!
Cho đến hôm nay cả nước đã có 22.500 người tử vong vì Covid-19, mất mát này là hết sức to lớn. Có thể nói từ năm 1975 đến nay, tổn thất về người này là lớn nhất, nhiều nhất. Bởi vậy, nên cho phép được tổ chức Ngày quốc tang cho những người là nạn nhân đã mất với 3 lý do sau:
Thứ nhất, con số 22.500 người đã mất vì dịch Covid-19 vừa qua là rất lớn, rất đáng để đất nước dành một ngày quốc tang. Điều này cũng phù hợp với kết luận của Bộ Chính trị trong Thông báo số 19 ngày 22.4.2011 là đồng ý tổ chức quốc tang trong trường hợp thiên tai, thảm họa đặc biệt nghiêm trọng gây thiệt hại lớn tính mạng, của cải của nhân dân. Thứ hai, hầu hết những người này đã ra đi trong sự đau đớn, xa cách người thân và vì dịch bệnh nên đã không được tổ chức mai táng chu toàn. Vậy dành cho họ một ngày quốc tang là rất nhân văn, nhân nghĩa lại rất nhân ái, đúng với đạo lý của con người Việt Nam. Thứ ba, dành một Ngày quốc tang cho 22.500 người đã mất thời gian qua là để nhắc nhở chúng ta - những người sống tuyệt đối không được lơ là việc phòng, chống dịch, để chúng ta đồng lòng hơn, quyết tâm hơn trong công cuộc chống lại đại dịch cam go và ác liệt này. Vậy, rất mong Chính phủ sớm lựa chọn thời điểm thích hợp để tổ chức ngày Quốc tang cho những nạn nhân mất vì Covid-19.
Hiện nay, chúng ta đã tự tin hơn vì biết, hiểu covid hơn trước, không hoảng loạn khi đối mặt với đại dịch. Bình tĩnh vì chúng ta đã có những kinh nghiệm chống dịch tốt, hay và cả chưa tốt, chưa hay, nhưng đều rất quý báu trong gần hai năm nay. Nay chúng ta cần bình tĩnh để thực hiện chiến lược thích ứng an toàn, linh hoạt, phòng chống dịch hiệu quả. Đây là chiến lược rất sáng tạo, được Nhân dân rất đồng tình và được quốc tế đánh giá cao. Cần thấy doanh nghiệp phải được sản xuất, trẻ em phải được đến trường, hàng hóa phải được thông thương, du lịch phải được hoạt động, sân bay phải được mở cửa… các hoạt động phải sống động trở lại. Tất cả đó đều là những nhu cầu tự thân chính đáng phải được tôn trọng và Đảng, Chính phủ, Bộ Y tế phải tìm ra cách giải quyết cho được. Rất khó nhưng không có nghĩa là không làm được!
Bộ trưởng Bộ Y tế Nguyễn Thanh Long giải trình, làm rõ một số vấn đề ĐBQH nêu
Thay mặt ngành y tế, Bộ trưởng Bộ Y tế Nguyễn Thanh Long cảm ơn Quốc hội, cử tri và nhân dân cả nước đã quan tâm, động viên, chia sẻ, hỗ trợ và đồng hành cùng ngành y tế trong công cuộc phòng, chống đại dịch, Covid-19. Trong giai đoạn đầy khó khăn này, sự sẻ chia, ủng hộ của Quốc hội, cử tri và nhân dân cả nước là nguồn động viên to lớn đối với toàn thể ngành y tế và các lực lượng tuyến đầu phòng, chống dịch để tiếp tục cuộc chiến đầy cam go và thử thách. Toàn ngành y tế cùng người dân cả nước và cả hệ thống chính trị đã và đang nỗ lực, quyết tâm, chủ động ứng phó để sớm khống chế và đẩy lùi dịch Covid-19, một đại dịch chưa có trong tiền lệ.
Theo Bộ trưởng, đại dịch Covid-19 vẫn đang diễn ra hết sức phức tạp, gây ra những tổn thất về sức khỏe, tính mạng và kinh tế của tất cả các quốc gia trên thế giới. Làn sóng dịch hiện nay với biến chủng delta đã làm đảo lộn kết quả phòng, chống dịch của các nước trên thế giới. Từ khi phát hiện ca Covid-19 đầu tiên, Việt Nam đã trải qua ba đợt dịch và đang trong đợt thứ tư. Có một thực tế là đợt dịch lần sau bao giờ cũng diễn biến phức tạp hơn đợt dịch lần trước. Đợt dịch thứ tư với biến chủng delta lây lan nhanh, mạnh có khả năng tăng nặng bệnh, gây tác động nghiêm trọng đến sức khỏe người dân và ảnh hưởng lớn đến đời sống xã hội. Với sự nỗ lực, đoàn kết và quyết tâm cao của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, đặc biệt là sự hưởng ứng, ủng hộ, tham gia tích cực của mọi người dân; các chủ trương, giải pháp, quyết sách để triển khai nhanh chóng, quyết liệt, kịp thời với tinh thần trách nhiệm cao của cả hệ thống chính trị, chúng ta đã triển khai đồng bộ tất cả các biện pháp về chuyên môn y tế, giãn cách, tăng cường giãn cách xã hội, an ninh và an toàn trật tự xã hội. Đến nay các địa phương ở tâm dịch như TP. Hồ Chí Minh, Bình Dương, Đồng Nai, Long An đã kiểm soát được số ca nhiễm và ca tử vong. Dịch bệnh trên phạm vi toàn quốc được kiểm soát và cả nước đang từng bước thực hiện thích ứng an toàn, linh hoạt và kiểm soát hiệu quả đối với Covid-19. Báo cáo của Chính phủ đã thẳng thắn nêu lên những tồn tại, hạn chế và nguyên nhân trong công tác phòng, chống dịch như công tác dự báo có lúc chưa sát với thực tiễn; việc chỉ đạo, điều hành có nơi, có lúc còn lúng túng, bị động; tổ chức thực hiện tại các địa phương thiếu nhất quán, nhất là việc đi lại của người dân. Ngoài ra, hệ thống y tế bộc lộ nhiều hạn chế, nhất là y tế cơ sở và y tế dự phòng khi đáp ứng với đại dịch. Để đối phó với đại diện chưa có trong tiền lệ, các quốc gia trên thế giới cũng như Việt Nam buộc phải vừa làm vừa rút kinh nghiệm và liên tục điều chỉnh các chính sách, chiến lược cho phù hợp.
Thực tế công tác phòng chống dịch trong thời gian qua đã có một số kết quả bài học bước đầu. Sự chỉ đạo mạnh mẽ, quyết liệt của Đảng, Nhà nước, huy động toàn Đảng, toàn dân, toàn quân tham gia công tác phòng, chống dịch đã phát huy được thế mạnh của hệ thống chính trị cơ sở, huy động được mọi tầng lớp nhân dân cả nước đồng lòng chống dịch bởi ưu tiên đặt sức khỏe, tính mạng của người dân lên trên hết. Nhiều kinh nghiệm quý báu với các giải pháp chuyên môn về phòng, chống dịch chưa có trong tiền lệ đã được áp dụng như cách ly, điều trị F0 tại nhà, xét nghiệm thần tốc, phân tầng điều trị, thiết lập trạm y tế lưu động, trung tâm hồi sức tích cực. Chiến lược phòng, chống dịch luôn được điều chỉnh linh hoạt, phù hợp với thực tiễn theo từng hoàn cảnh, diễn biến của dịch. Ngoài ra, đã huy động số lượng lớn các lực lượng y tế, quân đội, công an và các lực lượng khác vào TP. Hồ Chí Minh và các tỉnh phía Nam. Trong đại dịch chúng ta đã phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc, cùng nhau vượt qua khó khăn. Ngành y tế xin được chia sẻ với những mất mát, tổn thất nặng nề về con người tại TP. Hồ Chí Minh và các địa phương khác trong thời gian qua.
Bộ trưởng cũng nêu ra một số vấn đề đại biểu Quốc hội và cử tri, nhân dân cả nước quan tâm.
Thứ nhất, về vaccine, trong thời gian qua chúng ta đã triển khai chiến lược vaccine rất hiệu quả trên tất cả các lĩnh vực từ mua, nhập khẩu, nghiên cứu sản xuất trong nước, tổ chức chiến dịch tiêm chủng. Đến nay Việt Nam đã có những thỏa thuận, đơn hàng, hợp đồng lên tới gần 200 triệu liều, đã tiếp nhận khoảng 125 triệu liều. Chúng ta đang đẩy nhanh tốc độ đưa vaccine về nước trong cuối năm nay để phục vụ người dân miễn phí. Chiến dịch tiêm chủng vaccine cũng đang được triển khai rất thành công. Tính đến ngày 7.11, cả nước đã tiêm được hơn 90 triệu liều với hơn 83,8% số người từ 18 tuổi đã được tiêm ít nhất một liều và hơn 40% số người 18 tuổi trở lên được tiêm đủ hai mũi. Số lượng vaccine hiện tại đã đảm bảo đủ liều vào cuối năm nay, đồng thời triển khai kế hoạch tiêm mũi thứ ba vào cuối năm nay và đầu năm sau. Việt Nam là một trong 20 nước trên thế giới có số liều vaccine tiêm chủng nhiều nhất, đứng thứ hai trong khu vực Đông Nam Á, sau Indonesia và là một trong nhóm 3 nước có tốc độ tiêm nhanh nhất. Ngoài ra, chúng ta đã và đang thúc đẩy việc nghiên cứu, chuyển giao sản xuất vaccine trong nước với hai vaccine đang thử nghiệm giai đoạn ba, một vaccine đang thử nghiệm giai đoạn hai cùng với các thỏa thuận chuyển giao công nghệ với các quốc gia trên thế giới để từng bước chủ động nguồn vaccine trong nước.
Thứ hai, về y tế cơ sở, y tế dự phòng. Trong thời gian qua y tế cơ sở, y tế dự phòng luôn được Đảng, Nhà nước quan tâm. Nghị quyết 20 của Trung ương đã xác định y tế dự phòng là then chốt, y tế cơ sở là nền tảng. Chính phủ đã ban hành Quyết định 2348 ngày 5.12.2016 về xây dựng y tế cơ sở trong tình hình mới. Các Đề án 47, 930 đã đầu tư cho tuyến huyện trước năm 2011 và hiện nay đã và đang huy động một số dự án ODA đầu tư cho trạm y tế tuyến xã, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân được tiếp cận với các dịch vụ y tế chất lượng ngay tại cơ sở. Tuy nhiên, hệ thống y tế cơ sở, y tế dự phòng vẫn tồn tại nhiều khó khăn, hạn chế và chưa đáp ứng được năng lực phòng, chống dịch nhất là khi xảy ra tình huống đại dịch trong thời gian qua. Trong thời gian tới, Chính phủ, Bộ Y tế sẽ tập trung củng cố, hoàn thiện tổ chức mạng lưới, cơ cấu lại hệ thống y tế, nhất là y tế cơ sở, tăng cường đầu tư, thúc đẩy đào tạo và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đổi mới cơ chế tài chính và mở rộng việc cung ứng dịch vụ y tế cơ sở.
Thứ ba, việc thực hiện thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát có hiệu quả đối với Covid-19. Bộ Y tế đã nghiên cứu, tham khảo các kinh nghiệm trong nước và quốc tế, tham mưu Chính phủ ban hành Nghị quyết 128 và ban hành Quyết định 4800 để tổ chức triển khai thực hiện chủ trương thích ứng an toàn liên quan, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả đối với Covid-19. Việc triển khai này nhằm mục tiêu vừa bảo vệ tối đa sức khỏe, tính mạng người dân, tạo điều kiện thuận lợi phục hồi sản xuất và phát triển kinh tế xã hội và đời sống sinh hoạt của nhân dân. Đến nay, việc triển khai đã được thực hiện cơ bản, đồng bộ, các địa phương đã không còn tình trạng phong tỏa trên diện rộng, gây ảnh hưởng đến đời sống của nhân dân nhưng vẫn đảm bảo phòng, chống dịch hiệu quả. Bộ Y tế hiện cũng đang hoàn thiện Chiến lược tổng thể phòng, chống Covid-19 trong thời gian tới.
Trên cơ sở những bài học kinh nghiệm, đúc kết trong quá trình triển khai thực hiện, ngành y tế sẽ nỗ lực, quyết tâm đổi mới mạnh mẽ, toàn diện để thực hiện thắng lợi mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp trong Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XIII. Trước mắt tập trung cao nhất cho công tác phòng, chống dịch Covid-19. Bộ trưởng cũng cảm ơn và tiếp thu đầy đủ, từ đó ngành y tế sẽ xây dựng, bổ sung, điều chỉnh các chính sách, chiến lược trong phòng, chống dịch bệnh.