ĐBQH Nguyễn Thị Thủy (Bắc Kạn):

Cân nhắc kỹ quy định việc thừa kế, tặng cho, chuyển nhượng quyền sử dụng đất

- Thứ Sáu, 03/11/2023, 16:00 - Chia sẻ

Đến thời điểm hiện nay, dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi) đã có thêm nhiều chính sách mới đối với đồng bào dân tộc thiểu số và có 5 nội dung rõ hơn so với dự thảo Luật trình Quốc hội tại Kỳ họp thứ Năm.

Thứ nhất, rõ hơn về đối tượng được hỗ trợ. Theo đó, dự thảo Luật quy định đối tượng được hỗ trợ không chỉ gồm cá nhân là người dân tộc thiểu số thuộc hộ nghèo như trước đây, mà còn mở rộng đến cả hộ cận nghèo.

Thứ hai, rõ hơn về địa bàn được hỗ trợ. Theo đó, dự thảo Luật quy định địa bàn được hỗ trợ là Vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi (thay cho quy định trước đây là Vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn). Nếu quy định như trước sẽ rất bất cập khi thực hiện chính sách hỗ trợ đất sinh hoạt cộng đồng cho đồng bào.

Thứ ba, rõ hơn về chính sách hỗ trợ. Theo đó, dự thảo Luật đưa ra nhiều chính sách mới để thực hiện việc hỗ trợ lần đầu đất ở, đất sản xuất. Đặc biệt, quy định chính sách hỗ trợ tiếp trong trường hợp đã được hỗ trợ lần đầu, nhưng nay không còn đất hoặc thiếu đất so với hạn mức.

Thứ tư, tương đối rõ về trách nhiệm thực hiện. (từ Chính phủ, đến Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân các cấp).

Thứ năm, rõ về nguồn lực thực hiện

Để tiếp tục hoàn thiện dự thảo luật, tôi xin góp ý trực tiếp về 4 nội dung. Cụ thể, thứ nhất, về đối tượng được hỗ trợ (Điều 16) quy định: đối tượng được hưởng chính sách hỗ trợ là cá nhân người đồng bào dân tộc thiểu số thuộc hộ nghèo, hộ cận nghèo (phải tại Vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi).

Tôi nhận thấy, nếu quy định như vậy thì cá nhân là người đồng bào dân tộc thiểu số tuy thuộc hộ nghèo, hộ cận nghèo nhưng ở ngoài Vùng đồng bào dân tộc thiểu số (tức là ngoài 3.434 xã đã được phân định thuộc Vùng này) sẽ không được hưởng chính sách hỗ trợ tại Điều 16. Trong khi đó, Nghị quyết Trung ương 18 không đặt vấn đề phân biệt địa bàn với đồng bào. Do đó, đề nghị cơ quan soạn thảo và cơ quan thẩm tra giải thích rõ hơn vấn đề này.

Thứ hai, về việc thừa kế, tặng cho, chuyển nhượng quyền sử dụng đất (tại Điều 48) quy định: người được hỗ trợ đất lần 2 chỉ được để lại thừa kế, tặng cho, chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho người thuộc hàng thừa kế mà có hoàn cảnh giống như mình (tức là phải là người đồng bào dân tộc thiểu số; phải thuộc diện hộ nghèo, hộ cận nghèo; và phải đã được Nhà nước giao đất, cho thuê đất nhưng nay không còn đất hoặc thiếu đất).

Tôi nhận thấy, việc thiết kế như trên cũng là với mong muốn bảo toàn quỹ đất để thực hiện chính sách đất đai dành cho đồng bào dân tộc thiểu số. Có thể nói: ý tưởng thì tốt, nhưng tôi đề nghị cân nhắc về tính khả thi.

Tôi xin lấy 1 ví dụ cụ thể, sau khi được giao đất (theo trường hợp này), người được giao đất sinh con đẻ cái, sinh sống cùng cả gia đình trên mảnh đất này cho đến khi mất. Mảnh đất này là nơi ăn chốn ở của cả gia đình, nơi thờ tự tổ tiên theo truyền thống của người Việt. Sau khi người này mất, nếu các thành viên trong gia đình (không thuộc các trường hợp quy định tại khoản 3, Điều 16) thì mảnh đất đã gắn bó cả đời với gia đình họ sẽ bị thu hồi.

Tôi băn khoăn về tính khả thi của chính sách này, việc thu hồi có thể làm phát sinh vấn đề xã hội, phát sinh khiếu nại, khiếu kiếu. Do đó, đề nghị cơ quan soạn thảo và cơ quan thẩm tra cân nhắc kỹ hơn.

Thứ ba, về việc bồi thường trong trường hợp thu hồi đất (cũng tại Điều 48) quy định: trường hợp người sử dụng đất (mà đất này có nguồn gốc được hỗ trợ theo khoản 3, Điều 16), khi người sử dụng đất chuyển khỏi địa bàn cấp tỉnh đến nơi khác sinh sống thì Nhà nước thu hồi đất và chỉ bồi thường tài sản gắn liền với đất.

Tôi thấy rằng, “người sử dụng đất” trong trường hợp này không chỉ là người được Nhà nước trực tiếp hỗ trợ đất, mà còn có thể là người đã nhận chuyển nhượng từ người được Nhà nước hỗ trợ. Và theo dự thảo thì người này cũng phải là người đồng bào dân tộc thiểu số mới được nhận chuyển nhượng. Như vậy, khi pháp luật đã cho phép việc chuyển nhượng, công nhận quan hệ chuyển nhượng đất. Nhưng khi thu hồi đất, Nhà nước chỉ bồi thường (tài sản gắn liền với đất) như dự thảo Luật là chưa phù hợp.

Thứ tư, về chủ thể quản lý đối với đất thu hồi (Điều 114) quy định: giao cho Tổ chức phát triển quỹ đất quản lý đất thu hồi tại khoản 2, Điều 79 (tức là đất thu hồi để thực hiện dự án bố trí cho đồng bào dân tộc thiểu số).

Tôi đề nghị cân nhắc nên giao việc quản lý loại đất này cho UBND cấp huyện (để huyện chỉ đạo xã) sẽ quản lý chặt chẽ hơn. Bởi vì, Tổ chức phát triển quỹ đất là đơn vị sự nghiệp thuộc Sở tài nguyên môi trường, hiện nay biên chế rất ít, khó có thể quản lý hết được các diện tích đất thu hồi (ở bản, ở xã), chủ yếu là vùng sâu, vùng xa, địa bàn rộng, đi lại khó khăn. Nếu quản lý không chặt chẽ, không thường xuyên, dễ bị lấn chiếm, sử dụng không đúng mục đích.

N. Thành ghi
#