Thầy Khiển (Phần 1)
Truyện ngắn của Ma Văn Kháng

17/08/2009 00:00

Đó là những năm giữa cuộc kháng chiến chống Pháp chín năm. Cả nước sau chiến dịch Biên giới năm 1950 thắng lợi, rầm rộ chuyển sang giai đoạn tổng phản công giành thắng lợi hoàn toàn. Xã tôi ở bên này con sông Thi, đối ngạn là cả một vùng tề, bên kia, bỗng nhiên như trở thành tấm gương đại diện, nên mọi mặt từ đi dân quân, đóng thuế nông nghiệp, xây dựng dân quân du kích đến học tập văn hóa đều phát triển mạnh mẽ lắm. Riêng về mặt giáo dục, hơn hẳn các xã xung quanh, xã tôi năm nay có hơn ba chục học trò tốt nghiệp kỳ thi tiểu học, được chuyển lên học cấp học trên. Hơn ba mươi trò vào năm thứ nhất trung học, hẳn nhiên xã phải cố gắng để mở trường cấp hai rồi. Cái thuận để mở trường cấp hai còn là vì ông Chiên chủ tịch xã tôi, xuất thân chèo đò ngang, tính tình táo tợn, lại có ông anh tên Sự mới được đề bạt phó ty giáo dục. Ông Sự làm nghề nông nhưng những ngày nông nhàn xách cái túi đồ nghề đi chữa đèn pin, kính bút, mồm miệng như cái tôm cái tép, được quy là xuất thân công nhân, thấm nhuần câu Một người làm quan cả họ được nhờ, ủng hộ quyết liệt việc này. Ông nói: “Xét theo quan điểm nịch sử thì mở trường cấp hai ở đây nà có ný”. Ông phó ty nói ngọng muốn nói đến sự phát triển về kinh tế, xã hội ở xã tôi. Xã tôi trời cho địa lợi, trên bến dưới thuyền, từ lâu đã hình thành một dãy phố và một khu chợ buôn bán tấp nập; từ ngày phân công đôi chiến tuyến ta - địch, chẳng hề suy giảm, trái lại, lại như được kích thích, trở thành cửa ngõ giao lưu trao đổi hàng hóa hai vùng. Giờ thì đêm đêm dân buôn từ vùng tề bơi thuyền, lội sông sang, nườm nượp kẻ bán người mua dưới ánh đèn măng sông xanh ngời. Nơi đây tiêu cả tiền ta, gọi là tiền trâu xanh, lẫn tờ bạc Đông Dương của Pháp; ở đây có đủ mặt các thứ hàng thiết yếu, cao cấp, từ tập giấy carbone đánh máy, lọ nước hoa Soir de Pari, đến thuốc chống sốt rét đặc hiệu Quinofort la croix… Nhìn phố xá tụ hội đông vui chẳng hề biết đến bom đạn, đã có lúc Chiên sạm mặt choắt, gầm ghè cảnh báo dân chúng rằng: Đừng tưởng bở! Tây nó dùng nơi này để nuôi cấy Việt gian và vỗ béo các vị đấy. Rồi có ngày nó cho máy bay tới làm cỏ sạch sanh các vị cho mà xem!

Việt gian tức là bọn điệp ngầm. Chẳng những thế, với từ ngữ đó, ông Chiên còn ám chỉ những kẻ từ bên kia sông sang, định cư làm ăn, buôn bán ở phố làng này. Phố làng đây là nơi qua lại công khai của cả hai bên, và với người dân ở bên vùng tề thì đâu chả là đồng đất nước mình, nên tìm được đất lành là cứ việc đậu, họ đâu nghĩ có ngày nằm trong vòng nghi ngại của ông Chiên. Trong số những người từ vùng địch chiếm sang đây ăn ở cùng đợt, tôi nhớ có ba người. Một người dắt cái xe đạp cuốc, được giới thiệu là cuarơ vô địch vòng đua quanh Đông Dương trước cách mạng. Một người béo lùn mặc áo da, vai khoác khẩu súng hai nòng, đi xe mô tô, có chị vợ tóc phi dê mở cửa hàng bán thuốc Tây. Và một người nữa dáng mảnh khảnh, đeo kính cận, có bà vợ già hơn tuổi làm nghề may. Đến đây, người thứ nhất mở cửa hàng sửa xe đạp. Ông thứ hai thường đi mô tô đến chân núi săn bắn chim muông, cầy cáo. Còn người cận thị, khi xã tôi mở trường cấp hai thì thành thầy giáo Khiển của chúng tôi. Thầy giáo Khiển từ vùng địch chạy ra, vốn là giáo học được mời ra làm giáo viên kiêm hiệu trưởng trường cấp hai của xã. Trường chỉ có độc một mình thầy, thầy dạy tất cả các môn từ toán, lý, hóa, đến văn, sử, địa, vẽ, nhạc, thể dục.

- E hèm, ta làm quen với nhau nào!

Tôi vẫn nhớ như in buổi đầu thầy vào lớp, thầy trò bắt đầu quen biết nhau. Thầy hấp háy hai con mắt trẻ trung, nghịch ngợm sau làn kính cận nhìn chúng tôi, lũ thiếu niên quê mùa, từ mười một mười hai tuổi bé oắt như tôi đến loại lộc ngộc mười sáu mười bảy tuổi, cười cười đi lại giữa hai hàng bàn, bảo từng người đứng lên, tự giới thiệu mình; đến lượt anh Ngôn lớp trưởng mười bảy tuổi, thấy mặt anh đỏ sượng, nhú nha nhú nhí nói rằng anh đã có vợ, thầy liền vỗ vai anh, cười xòa:

- Có gì mà ngượng! Trước sau hỏi rằng có ai thoát được cuộc sống lứa đôi?

Thầy bảo: chính thầy cũng lấy vợ năm mười sáu tuổi. Nó là cái lệ tảo hôn! Thầy kể: mười một tuổi, bố mẹ dẫn đi xem mặt vợ, lúc về hỏi: Mày thấy nó thế nào? Thầy ngơ ngẩn hỏi cái gì cơ ạ? Đêm tân hôn, thầy leo lên gác chuồng trâu trốn biệt. Hôm sau, ông cậu đến, phân giải điều hay lẽ phải, rồi bảo: “Đêm nay cháu cứ vào nằm cùng giường với nó. Đàn bà ấy vậy mà nó cũng có nhiều cái hay ho lắm cháu à”. Thầy bị đẩy vào buồng cô dâu; nhưng thầy leo lên cái bàn, ngủ suốt đêm. Cứ thế một tháng liền, cho đến khi cô dâu tủi thân đòi bỏ về nhà bố mẹ, mưu mô của thầy mới bại lộ. Thế là thầy lâm cảnh đành phải nhắm mắt đưa chân lúc tắt đèn. Và bây giờ, mới hăm tám mà thầy đã có một trai hai gái, người tóp như cành củi khô, trong khi bà vợ băm tư thì xổ ra như cái đụn rạ. “ấy, cái sự béo của bà ấy giải thích cái sự gầy của tôi, các em à”. Thầy gãi tai, giả vờ ngượng nghịu, thanh minh cho cái thể trạng gầy còm của mình.

Con trai nhà quê sớm phát triển tính tò mò, nghe chuyện thầy, khoái lắm. Chuyện lan ra làng phố, ai cũng bảo thầy Khiển là người vui tính; người vui tính thường là người tốt bụng.

Thầy Khiển quả là người vui tính. Ngoại hình thầy thoạt trông đã thấy ngồ ngộ rồi. Gầy sắt seo, da bánh mật, đã thế lại mặc toàn đồ chật bằng vải dày. Cái thắt lưng siết chặt, thầy chỉ bằng cái chét tay. Trong khi đó, cái mũ thầy đội vành rộng gần bằng cái nón. Cái mũ cát bo to ấy chụp lên trên một cái đầu quá khổ có cái mái tóc xoăn tự nhiên. Cái kính cận lồi nuốt cả khuôn mặt nhỏ hoăn hoắt. Cái miệng chuột chù hơi dẩu ra cùng hàm răng trắng tinh tủm tỉm nở nụ cười yêu đời một cách thường trực. Hai cái mắt kính và cái miệng thầy lúc nào cũng chúi xuống những cuốn sách toán học, vật lý học bằng tiếng Pháp dầy cộm.

Thầy Khiển trong con mắt dân quê có vẻ như là người tốt bụng và lập dị. Vì dường như có cái gì đó như là hai mặt khác biệt cùng có mặt một lúc ở trong thầy. Thầy vui vẻ tếu táo đấy, mà cũng nghiêm cẩn chuyên cần đấy. Xô bồ đấy, mà xem ra cũng đàng hoàng tề chỉnh lắm. Thầy rất thích ăn lòng lợn tiết canh, bún ốc, bún riêu ở ngoài chợ. Nhưng bắt tay ai thầy cũng lấy khăn tay ra lau. Trong nhà thầy khắp nơi là khẩu hiệu. Ở bộ bàn ghế tiếp khách thì có dòng chữ viết: “Nếu ai ngồi chơi, Khiển đề nghị không quá năm phút”. Ở cửa buồng thì; “Không có việc miễn vào”. Ở lưng cái ghế bành thầy dán một tờ giấy ghi hàng chữ yêu cầu khách ngồi không gác chân lên ghế. Còn trên tường, chỗ thì: “Lấy đâu để đấy”, chỗ thì: “Nói khẽ, mỉm cười, đi nhẹ chân”, “Trật tự kỷ luật”…

Thầy hay ngủ trưa. Thầy hôn vợ trước khi đi làm. Thầy chơi thân với ông cuarơ vô địch và ông thợ săn. Gặp nhau là họ xì xồ tiếng Tây với nhau. Nhưng, lắm khi thầy lại mang dáng dấp sĩ phu tử nói chuyện đời toàn dẫn lời Khổng Mạnh. Chẳng hạn, thầy không phàn nàn cảnh sống thiếu thốn ở vùng tự do, thầy bảo: Cơm độn sắn khoai, mặc áo vá, chân đi dép cao su, có sao đâu! Vì như Đức Khổng phu tử đã nói: kẻ sĩ gặp thời thì đi ngựa đi xe, không gặp thời thì đội nón đi bộ, các em à.

Hồi mới vào học, anh Ngôn lớp tôi lớn tuổi có vợ nên có ý ngại ngùng việc đèn sách. Thấy vậy, thầy Khiển mắng liền:

- Này, anh Ngôn có biết câu này của một triết gia Pháp không? “L’homme ne s’improvise pas”, con người không nhất đán mà thành được. Anh cũng nên biết câu này nữa của Khổng Tử: Thủy ư vi sĩ. Chung ư vi thánh nhân”. Bắt đầu là học trò, chung cục là người thánh. Đáng thương cho kẻ nào không được học làm trò.

*
*    *

Thầy Khiển của chúng tôi đã từng qua đời học trò và bây giờ tài giỏi như là đã đạt tới bậc thánh nhân. Lĩnh vực nào thầy cũng tinh thông, tỏ tường. Lịch sử Đông Tây kim cổ thầy làu làu. Tưởng như nhắm mắt thầy cũng vẽ được tấm bản đồ thế giới, đủ đường nét khúc khửu, rắc rối. Động tới cái gì thầy cũng đào sâu đến tận rễ. Đã sâu sắc thầy lại tài hoa. Giỏi giang chắc không chỉ có mình thầy, nhưng cái duyên, cái hài hước thì khéo chỉ có thầy có. Thầy bình truyện Kiều thì cả lũ chúng tôi cứ ngây ra ngỡ ngàng, kinh ngạc như lần đầu thấy được một tòa lâu đài cực kỳ tráng lệ. Thầy bắt chúng tôi học thuộc lòng bài Le Lac của Lamartine, Le printemps của Victor Hugo, lại dạy cho chúng tôi mấy câu tán thông tục dân dã.

Nhưng mà tài nhất phải nói thầy dạy các môn toán, lý, hóa. Sách giáo khoa không có. Thầy dịch từ sách Pháp thành bài dạy. Mỗi bài toán thầy dẫn chúng tôi vào một cuộc đấu trí thật say mê. Cái đẹp của toán học, chúng tôi nhận ra, thú vị và thần phục như thấy thầy không compa mà văng tay một cái là có được một hình tròn vành vạnh và tấm bảng đen trong giờ thầy dạy sặc sỡ các loại phấn màu, đẹp như một bức gấm thêu. Tôi nhớ mãi những buổi sinh hoạt dã ngoại, cắm trại ngoài trời. Chúng tôi lần theo các dấu hiệu bên đường, hồi hộp từng bước đi, phát huy sáng tạo để vượt qua một cây cầu hỏng, một khe suối sâu, hay giải một câu đố hiểm. Trong ánh lửa trại bập bùng lay động bóng đêm, thầy dạy chúng tôi hát. Rồi thầy bảo: Các em hãy coi như người đi xa, thử kể về làng mình xem. Chúng tôi chưa biết nói thế nào, thì anh Ngôn trưởng lớp đã nhanh mồm yêu cầu thầy kể về làng quê chôn rau cắt rốn của thầy. Thầy gật đầu, trầm ngâm: “Quê tôi là một làng nhỏ xa xăm như cái làng Mùi của văn hào Lỗ Tấn”. Anh Ngôn nghe đến đấy lại giơ tay: “Thưa thầy, lỗ Tấn là ai ạ?” Thế là, được dịp từng nấc thang, thầy nâng chúng tôi lên những tầm hiểu biết mới. Chúng tôi biết Lỗ Tấn là đại văn hào Trung Quốc thời cách mạng. Chúng tôi biết cả Nghiêu, Thuấn, Vũ, Thang, và Tứ thư, Ngũ kinh, những từ ấy hàm chứa đại khái nội dung gì! Chúng tôi chạm đến tư tưởng nghiêm nghị của Đêcac, triết lý thiết thực của La Phôngten, những vở kịch phàm trần của Môlierơ, chất anh hùng lý tưởng của kịch Coócnây…

Dạo đó đã làm gì có phòng thí nghiệm và đồ giảng dạy được cấp phát. Để dạy bài sức đẩy của nước, thầy phải gửi tiền sang vùng tề bên kia sông mua mấy tấm kính và ma tít về, gắn lại thành một cái bể nước nhỏ. Lại nằn nì mượn được ba quả bóng tennít của ông thợ săn.Vào buổi học, thầy thả ba quả bóng nọ xuống bể nước. Lạ sao, ba quả bóng thì một quả nổi lềnh bềnh, một quả chìm xuống tận đáy, một quả lửng lơ giữa bể nước. Vì sao thế? Từ hiện tượng nọ thầy khắc sâu vào trí nhớ chúng tôi nguyên lý cái tàu ngầm. Thầy mượn chiếc vành xe của ông cuarơ về, gá lên mặt bàn, vừa quay vừa giảng về chuyển động. Nhân có buổi bộ đội huyện đấu bóng với thanh niên xã, thầy dành một buổi ngoại khóa mời một cầu thủ nối tiếng đến chơi. Cầu thủ này trong trận đấu vừa rồi có cú sút phạt góc rất tài tình: quả bóng thoạt đầu đi theo một đường thẳng nhưng về cuối lại ngoặt về bên phải, lọt vào cầu môn. Tại sao có hiện tượng kỳ lạ vậy? Thầy vẽ hình quả bóng lên bảng, chia quả bóng thành bốn phần, rồi phân tích sức hút của quả đất, về lực đá và tác động của mô men quay, rồi chỉ phần dưới bên phải quả bóng và hất hàm hỏi anh cầu thủ: “Có phải anh đá bằng má trong bàn chân vào phần này quả bóng không?” Anh cầu thủ gật đầu, công nhận đúng. Chà! Cuộc sống hiện ra dưới ánh sáng khoa học lý thú biết bao nhiêu. Lặn xuống nước phải nhịn hơi. Con cá giật lên mặt nước bỗng thấy trĩu cành câu. Tra cán cuốc phải dộng ngược… Giờ đây chúng tôi đã hiểu các hiện tượng nọ ở chiều sâu nguyên lý. Bùng lên trong chúng tôi một ngọn lửa khát khao hiểu biết, được nhen nhúm, từ tay thầy. Và nhìn ra chung quanh, chúng tôi nhận ra những vùng tối tăm mù mịt.

Nhưng rồi đã xảy ra một cái gì đó như là một trục trặc. Vâng! Đã xảy ra một trục trặc bất thường, khởi đầu là một tiết dạy của thầy. Tiết ấy thầy dạy về cơ thể con người, tôi đi học muộn. Vừa bước vào lớp tôi bị thầy gọi lên bảng và đang ngơ ngác đã thấy thầy chỉ cái mặt bàn bảo tôi bước lên. Ô hay! Lớp học hôm nay sao đông thế! Tôi dụi mắt. Thì ra, ở cuối lớp có kê thêm một hàng ghế, lúc này trên hàng ghế nọ đã chật người và tôi nhận ra đứng đầu tốp người nọ là ông Chiên chủ tịch xã mặt choắt mắt sâu, râu rậm đang gườm gườm nhìn lên. Các vị chức sắc ở xã chẳng hiểu vì lý do gì, bỗng ập đến kiểm tra việc giảng dạy của thầy Khiển.

“Em cởi áo ra!” Tôi vừa định thần thì nghe lời thầy Khiển. Cởi áo? Thế là thế nào? Tôi hơi co người lại, nhưng kìa thầy đã giục lần nữa. A, thế thì tôi hiểu rồi. Thầy dùng thân thể tôi đề làm đồ dùng giảng dạy. Thầy dạy cho học trò chúng tôi biết: thân thể người ta chia ra làm ba phần, đâu là đầu, đâu là tứ chi. Chỗ nào là ngực, phần nào là bụng, là lưng.

Xoay người tôi đối diện với các vị chức sắc và lớp học, lần này thầy làm tôi đỏ dừ mặt vì thầy lại ghé tai tôi, nói thầm: “Em cởi quần ra!” Ôi, cởi quần! Tôi run lẩy bẩy vì sợ, vì ngượng ngùng. Nhưng, kìa thầy đã lại ghé tai tôi, thầm thì: “Chú bé can đảm! Hãy giúp thầy để thầy dạy các bạn và...”

Tôi không hiểu mình đã cởi dây rút và tụt cái quần đùi ra như thế nào. Người tôi cứng đơ. Mắt tôi tóe vòng xanh đỏ, rồi nhòe nhòe. Tôi như cái máy, mặc thầy xoay trước đặt sau, lẩn mẩn giảng giải và chỉ trỏ từng bộ phận ở phần dưới của cái cơ thể hoàn toàn trần trụi của tôi, cho cả lớp học nghe.

Cuối cùng, tôi nghe thầy bảo các bạn hoan hô tôi đã can đảm, và tôi vội xỏ chân vào hai ống quần, kéo ngược lên, rồi nhảy phịch xuống đất, chạy về chỗ ngồi, giữa tiếng vỗ tay ầm ĩ của bạn bè và tiếng xô ghế tức giận của ông Chiên ngồi dự ở cuối lớp.

*
*   *

Câu chuyện tôi cởi truồng ở giờ dạy nọ của thầy Khiển không ngờ gây ầm ĩ và trở thành đầu đề của bao cuộc phiếm luận, đàm tiếu của những người nhiễu sự. Những người này bảo thầy Khiển thế mà thâm. Rõ là trật c. ra trước mặt lão Chiên mà lão chẳng làm gì được. Cứ hằm hè, dậm dọa chúng tao nữa đi, hỡi thằng chèo đò ngang gặp thời thế lên mặt hống hách kia! Ha ha, được dịp, thế là quán nước bến đò rầm rĩ câu chuyện về anh em Chiên - Sự. Hai anh em nhà này y hệt nhau, cùng thất học mà hung hăng lắm. Rõ là thời lai đồ điếu thành công dị chưa! Chiên chỉ là anh chở đò ngang mà nghênh ngang một cõi, bất chấp lệ luật, muốn bắt chẹt ai cứ tự tiện. Còn Sự được cất nhắc, vì hay lên mặt với mấy người tản cư, dị ứng với người trí thức, coi kẻ có học tuốt luốt là Việt gian gián điệp. Cả hai cùng dòng máu dâm dê, cùng mắc thói tí tởn đàn bà, con gái. Chiên thì công khai ăn ở với một chị chồng đi bộ đội, làm bún bán ở bờ sông. Còn Sự thì được đặt tục danh là Sự sờ nặng để nhắc ông nhớ viết đúng chính tả tên ông, vì hồi học binh dân ông hay viết sai và cũng ám thị luôn tật xấu hay sờ soạng nữ nhân viên cơ quan của ông.

Tất nhiên chuyện đến tai bố tôi, một nông dân đọc thông viết thạo chữ quốc ngữ và võ vẽ dăm ba chữ thánh hiền. Một hôm, ở trụ sở ủy ban xã về, mặt hầm hầm, ông gọi tôi lên, bảo tôi kể lại câu chuyện rồi đấm mạnh tay xuống bàn, nói rằng ông sẽ kiện thầy Khiển. Kiện thầy Khiển, vì thầy đã làm nhục con ông.

“Thôi ông ơi, chẳng qua là cái sự bất đắc dĩ chứ thầy nào có dụng tâm vậy”. Nghe mẹ tôi can ngăn, bố tôi lặng đi một lúc, xem ra có vẻ nguôi, rồi thở ra nhè nhẹ: “Tôi thì tôi sẵn sàng bỏ qua, nhưng anh em nhà lão Chiên thì nó không để thầy yên đâu”.

Thầy Khiển tôi chẳng yên được với anh em nhà ông Chiên - Sự đâu. Các anh lớn ở lớp tôi và tôi là đứa bé nhất lớp, ngày ngày đều dõi theo thầy với tâm trạng nơm nớp lo ngại cho thầy. Chiên, Sự đều chẳng phải tay vừa. Chiên thì bạo tợn. Sự thì lợi khẩu. Mà trong tay họ giờ là quyền hành. Nhưng hình như thầy Khiển của chúng tôi, chẳng biết gì đến điều nguy hiểm đang đe dọa thầy. Hai mắt kính thầy cứ lấp láy. Cái miệng chù chù của thầy cứ ho hó. Thầy vẫn một phong thái tề chỉnh, đàng hoàng, vô tư, hồn nhiên, không thiện không ác, như bẩm sinh tính người. Mỗi giờ dạy của thầy vẫn đều đặn là một dịp thầy phát tiết anh hoa. Thầy vẫn là thầy, bất cần biết ngoại cảnh.

(Số sau đăng hết)

    Nổi bật
        Mới nhất
        Thầy Khiển (Phần 1)<BR>Truyện ngắn của Ma Văn Kháng
        • Mặc định
        POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO