Sinh thiết hạch cửa bằng ICG - kỹ thuật mới giúp can thiệp tối thiểu cho bệnh nhân ung thư vú giai đoạn sớm
Bệnh viện K áp dụng kỹ thuật sinh thiết hạch cửa bằng Xanh Indocyanine (ICG), giúp bệnh nhân ung thư vú giai đoạn sớm tránh vét hạch nách và giảm biến chứng sau mổ.
Theo các bác sĩ Bệnh viện K, điều trị ung thư vú là điều trị đa mô thức, gồm phẫu thuật, hóa trị, xạ trị, điều trị đích và điều trị miễn dịch. Trong đó, phẫu thuật đóng vai trò triệt căn.
Trước đây, bệnh nhân ung thư vú khi phẫu thuật thường phải vét toàn bộ hạch nách để đánh giá và xây dựng phác đồ điều trị. Tuy nhiên, vét hạch triệt căn dễ gây biến chứng như đọng dịch vùng nách, đau, tê bì, phù bạch huyết, ảnh hưởng lớn đến chất lượng sống.
Thực tế, chỉ khoảng 20–30% trường hợp ung thư vú có u nhỏ dưới 2 cm mới di căn hạch nách. Do vậy, câu hỏi đặt ra là liệu có phương pháp nào giúp đánh giá tình trạng di căn hạch ở giai đoạn sớm mà không cần vét toàn bộ hạch nách?
Thời gian qua, Bệnh viện K đã áp dụng thành công kỹ thuật sinh thiết hạch cửa bằng Xanh Indocyanine (ICG) - một phương pháp mới xác định chính xác hạch cửa. Nếu hạch này không di căn, bệnh nhân sẽ tránh được vét hạch nách và các biến chứng sau đó, góp phần can thiệp tối thiểu cho bệnh nhân ung thư vú giai đoạn sớm.
Hạch cửa và phương pháp xác định hạch cửa
Hạch cửa trong ung thư vú được định nghĩa “là một hoặc một số hạch đầu tiên tiếp nhận dẫn lưu bạch huyết hoặc di căn ung thư từ vú đến”. Khi hạch cửa không bị di căn thì các hạch nách còn lại cũng chưa có di căn. Với các bệnh nhân ung thư vú giai đoạn sớm sinh thiết hạch cửa nhằm đánh giá đúng tình trạng di căn hạch nách đồng thời hạn chế tối đa các biến chứng do vét hạch.
Bệnh viện K đã triển khai nhiều phương pháp sinh thiết hạch cửa như: sử dụng xanh methylen, đồng vị phóng xạ. Gần đây, kỹ thuật dùng Xanh Indocyanine (ICG) đã được thực hiện tại Khoa Ngoại vú, mang lại hiệu quả và triển vọng cao cho người bệnh.

Kỹ thuật sinh thiết hạch cửa bằng ICG nâng cao hiệu quả điều trị ung thư vú
ICG trước đây được dùng để đánh giá chức năng dự trữ gan và tuần hoàn tim. Với đặc tính huỳnh quang độc đáo, khi tiêm vào cơ thể và sử dụng hệ thống hình ảnh cận hồng ngoại (FluoBeam), ICG cho hình ảnh huỳnh quang rõ nét, giúp bác sĩ quan sát dẫn lưu bạch huyết và hạch cửa ngay trong phẫu thuật.
Nếu hạch cửa không di căn, bệnh nhân sẽ được miễn vét hạch nách, tránh biến chứng và rút ngắn thời gian hồi phục.
PGS.TS Lê Hồng Quang – Trưởng khoa Ngoại vú, cho biết: "So với các phương pháp trước đây thì sinh thiết hạch cửa bằng ICG là phương pháp có nhiều ưu điểm như: thực hiện nhanh, nhìn trực tiếp hạch và đường đi bạch huyết, tỷ lệ phát hiện hạch cửa cao, ít bị dị ứng...
Kỹ thuật này đã được triển khai tại Bệnh viện K góp phần can thiệp tối thiểu, nâng cao hiệu quả và chất lượng điều trị cho bệnh nhân ung thư vú. Nhờ đó mà người bệnh yên tâm hơn, đặt niềm tin vào y học hiện đại và bác sĩ điều trị để có thể tuân thủ phác đồ điều trị và vượt qua với tinh thần tích cực, lạc quan, đó là điều mà bác sĩ như chúng tôi hướng tới".
Thời gian qua, Bệnh viện K nói chung và Khoa Ngoại vú nói riêng luôn nỗ lực cập nhật, áp dụng các tiến bộ trong chẩn đoán và phẫu thuật ung thư vú, nhằm nâng cao hiệu quả điều trị và đáp ứng sự tin tưởng của hàng ngàn người bệnh lựa chọn điều trị tại đây.