Sinh kế bền vững từ trồng nấm linh chi dưới tán rừng keo
Giữa tháng 6/2025, nhóm thực hiện Dự án Thương mại hóa nấm quý hiếm cho cộng đồng vùng đệm Vườn Quốc gia Kon Ka Kinh và chính quyền xã Ayun, tỉnh Gia Lai, đã tổ chức đợt thu hoạch nấm linh chi đầu tiên trồng dưới tán rừng keo. Đây là một phần trong mục tiêu dài hạn của dự án nhằm mang lại sinh kế bền vững cho cộng đồng dân cư địa phương.
Bảo vệ rừng, gắn kết người dân với tự nhiên
Dự án Thương mại hóa nấm quý hiếm cho cộng đồng vùng đệm Vườn Quốc gia Kon Ka Kinh do Viện Tài nguyên và Môi trường, Đại học Quốc gia Hà Nội, thực hiện. Dự án trong khuôn khổ các gói tài trợ nhỏ Chương trình SGPII - lần 2 do Ngân hàng Tái thiết Đức (KfW) tài trợ cho các nước ASEAN thông qua Trung tâm Bảo tồn đa dạng sinh học ASEAN (ACB).
Dự án được triển khai từ tháng 12/2023 đến tháng 6/2025, với quy mô 12.000 phôi nấm trên diện tích 550m2, tỷ lệ sống đạt khoảng trên 90%, sinh trưởng tốt và cho thu hoạch đúng thời điểm, bảo đảm chất lượng cao với kích thước đồng đều và giá trị thương mại đáng kể. Với giá bán 250.000 đồng/kg nấm tươi và 3 đợt thu hoạch mỗi năm, lợi nhuận sau khi trừ chi phí ước đạt 201 triệu đồng/năm, tương đương 18 - 22 triệu đồng/tháng, vượt mục tiêu tăng thu nhập 5% so với kế hoạch ban đầu.

Bên cạnh giá trị kinh tế, mô hình còn góp phần duy trì độ che phủ cây rừng và gắn kết người dân với thiên nhiên một cách bền vững. Việc tận dụng không gian dưới tán keo để trồng nấm đã mở ra hướng đi mới trong phát triển sinh kế gắn với bảo tồn đa dạng sinh học và du lịch sinh thái cho người dân địa phương.
Dự án cũng tiếp tục khẳng định vai trò của Viện Tài nguyên và Môi trường trong kết nối nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ và hỗ trợ cộng đồng địa phương. Đây là bước đệm cho việc phát triển chuỗi giá trị nấm linh chi tại địa phương; đồng thời mở rộng quy mô và xây dựng thương hiệu nấm linh chi Kon Ka Kinh, tiến gần hơn đến thị trường dược liệu chất lượng cao trong nước và quốc tế.
Cộng đồng quyết định thành công của dự án
Qua quá trình triển khai, TS. Hà Thị Thu Huế, Trường Khoa học liên ngành và Nghệ thuật, Đại học Quốc gia Hà Nội (nguyên Trưởng phòng Nghiên cứu đất ngập nước và Biển đảo, Viện Tài nguyên và Môi trường), Chủ nhiệm dự án khẳng định, cộng đồng là người quyết định thành công của mô hình. “Khi được tập huấn và trao quyền, người dân chủ động hơn, tăng tính bền vững mô hình. Tinh thần hợp tác, đoàn kết của bà con cũng là yếu tố then chốt”.
Làng Hier (xã Ayun) - nơi triển khai dự án, 100% người dân là đồng bào Bahnar, vốn sống dựa vào nông nghiệp tự cung và khai thác lâm sản ngoài gỗ. Làng có 187 hộ thì 53% hộ nghèo, cận nghèo, người dân nói tiếng Kinh không sõi, ngại tiếp xúc với người ngoài.

Nhóm nghiên cứu đã khảo sát vùng đệm của Vườn quốc gia Kon Ka Kinh, làm việc với chính quyền địa phương và Ban Quản lý Vườn quốc gia để tìm hiểu nhu cầu và điều kiện. Từ đó, đề xuất mô hình trồng nấm linh chi dưới tán rừng keo của hộ dân - giải pháp vừa tạo sinh kế bền vững, nâng cao thu nhập, vừa giảm áp lực khai thác rừng tự nhiên, phù hợp chủ trương quốc gia về phát triển kinh tế dưới tán rừng.
“Trồng nấm dưới tán keo cũng phù hợp với tập quán canh tác của đồng bào Bahnar, chỉ cần khoảng 1 tiếng đồng hồ mỗi ngày để chăm sóc; dễ kết hợp với các hoạt động sản xuất khác. Việc sử dụng loài cây phổ biến ở địa phương (nấm linh chi) cũng giúp mô hình có tính khả thi và khả năng nhân rộng cao”, TS. Hà Thị Thu Huế cho biết.
Dự án đã thành lập 1 tổ hợp tác, cùng chính quyền lựa chọn và thuyết phục 7 hộ gia đình tại làng Hier tham gia. Đây là các hộ ở gần khu rừng trồng nấm để tiện chăm sóc và trông coi, là hộ nghèo nhưng có sức lao động, và đặc biệt là cam kết tham gia dự án. Các hộ gia đình tham gia được tập huấn kỹ thuật trồng nấm linh chi; kinh doanh gắn với du lịch sinh thái; thu hái, sơ chế, bảo quản nấm; khảo sát thị trường, xây dựng nhân hiệu sản phẩm và hệ thống bao bì, hướng đến liên kết thị trường với doanh nghiệp. 30 người được đi học tập kinh nghiệm tại Đắk Lắk và Đà Lạt (Lâm Đồng).
Là người đầu tiên tham gia mô hình trồng nấm dưới tán rừng keo, ông Nhoh nhớ lại, giai đoạn đầu khá khó khăn, thời tiết không ổn định, một số nấm bị chết hoặc nhiễm bệnh. Tuy nhiên, sau đó nấm phát triển tốt, bà con chăm sóc cẩn thận và tích cực tham gia. Ý thức của bà con đã thay đổi, từ gom rác, làm sạch lá rụng, cân từng luống nấm để tính năng suất trung bình/phôi. “Giờ đây nấm đã được thu hoạch và cho thu nhập cao, bà con đã yên tâm trồng và chăm sóc nấm. Bà con mong muốn đầu ra ổn định để tạo sinh kế lâu dài”.
Mong muốn của ông Nhoh và bà con làng Hier cũng là vấn đề nhóm thực hiện dự án quan tâm. Hiện nhà cung cấp phôi nấm cũng chính là người thu mua sản phẩm đầu ra. Theo TS. Hà Thị Thu Huế, “phải có sự cam kết giữa các nhà, trong đó có hợp tác công - tư để bảo đảm thị trường đầu ra cho nông dân. Đây là điều cần tính đến trong quá trình triển khai nếu như muốn nhân rộng dự án”.