Quốc hội thảo luận về kinh tế -xã hội và ngân sách nhà nước

T. Tâm - P. Thúy - P. Thủy - H. Ngọc - Hà An - Chi An 31/10/2017 18:45

Ngày 31.10, QH thảo luận tại Hội trường về kết quả thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và ngân sách nhà nước năm 2017; kế hoạch phát triển kinh tế -xã hội, dự toán ngân sách nhà nước, phương án phân bổ ngân sách trung ương năm 2018 và kế hoạch tài chính-ngân sách nhà nước 3 năm quốc gia 2018-2020.

Kết luận ngày thảo luận đầu tiên về tình hình kinh tế-xã hội và ngân sách nhà nước, Phó Chủ tịch QH Phùng Quốc Hiển cho biết, tại Phiên họp đã có 41 lượt ĐBQH phát biểu, 8 ĐBQH tranh luận và 2 Bộ trưởng giải trình, làm rõ những vấn đề ĐBQH quan tâm.

“Không khí phát biểu ngày đầu tiên rất sôi nổi, có chất lượng, tranh luận thẳng thắn và xây dựng, vẫn còn 69 ĐBQH đăng ký chưa phát biểu. Ngày mai QH tiếp tục thảo luận tại hội trường, Đoàn Chủ tịch mời 2 Bộ trưởng: Bộ trưởng Bộ Công thương, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn phát biểu giải trình”, Phó Chủ tịch QH Phùng Quốc Hiển cho biết.

Báo Đại biểu Nhân dân sẽ tường thuật trực tiếp các nội dung quan trọng này.

Mời độc giả quan tâm theo dõi:

Tăng trưởng thì tốt, nhưng phải bền vững

Giải trình, làm rõ thêm những vấn đề ĐBQH quan tâm, cụ thể là về chỉ số tăng trưởng GDP, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng cho biết, việc tăng trưởng quý III đạt mức cao (7,46%) có thể dẫn đến khả năng hoàn thiện mục tiêu tăng trưởng của cả năm. Bởi với kết quả đạt được vừa qua, thì trong quý IV này chỉ cần đạt tốc độ tăng trưởng 7,3%, mà quy luật hàng năm cho thấy quý cuối năm thường đạt tốc độ tăng trưởng cao nhất.

Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng giải trình, làm rõ thêm những vấn đề ĐBQH quan tâm Ảnh: Quang Khánh
Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng giải trình, làm rõ thêm những vấn đề ĐBQH quan tâm Ảnh: Quang Khánh

Do đó, “chúng ta có thể hoàn toàn tin tưởng quý IV có thể đạt tốc độ 7,3%, giúp đạt tốc độ tăng trưởng cả năm đạt 6,7% như chỉ tiêu QH đề ra”, Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng khẳng định.

Theo Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng, kết quả tăng trưởng cao trong 3 quý vừa qua đạt được từ nhiều nguyên nhân, cả khách quan và chủ quan, từ bối cảnh thế giới, hiệu quả chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, nỗ lực của cả hệ thống chính trị... Mặt khác, số liệu của tháng 10.2017 cho thấy, các chỉ số hiện vẫn có chuyển biến tích cực, trong đó sản xuất công nghiệp tăng 8%, cao hơn so với cùng kỳ năm ngoái (7,5%), trong đó ngành chế biến, chế tạo tăng 7,6%. Khách quốc tế đến Việt Nam tăng 28,4% so với cùng kỳ, cả năm sẽ đạt được 7,3 triệu. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đăng ký tăng 37,4% so với cùng kỳ, vốn ước thực hiện tăng 11,8% so với cùng kỳ (chỉ tăng 9%). Xuất khẩu cũng tăng mạnh, tăng 20,1% so với cùng kỳ. Số lượng doanh nghiệp đăng ký thành lập mới tăng 14,6% về số lượng doanh nghiệp và tăng 4,38% về số vốn đăng ký.

Ảnh: Quang Khánh
Ảnh: Quang Khánh

“Từ kết quả của 10 tháng cho thấy, tín hiệu khả quan về đạt mục tiêu tăng trưởng cả năm 6,7%”, Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng nhấn mạnh.

Chưa đồng thuận với giải trình của Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng, ĐBQH Hoàng Quang Hàm (Phú Thọ) tranh luận: “Tôi thống nhất là Chính phủ rất nỗ lực, quyết tâm. Nguyên nhân Bộ trưởng đưa ra cũng thống nhất về chu kỳ sản xuất kinh doanh vào dịp tết, lễ hội. Nhưng xin trao đổi thêm 2 nguyên nhân mà tôi cho rằng Chính phủ cần phải quan tâm”.

Trước tiên, theo ĐB Hoàng Quang Hàm, thì “chúng ta đang cố tăng trưởng bằng mọi giá, giải pháp đưa ra các quý cuối năm là ngắn hạn”. Trước đây, 2014 tăng trưởng các quý đều nhau, nhưng bắt đầu từ 2015, 2016 chúng ta bán thêm dầu và khai thác thêm tài nguyên khoáng sản nên quý III, IV tăng trưởng và sang quý sau bị hụt hơi không tăng trưởng nữa vì hết tài nguyên rồi. Với quý IV.2017, hiện chúng ta vẫn trông vào giải pháp ngắn hạn, ví dụ đẩy tăng trưởng tín dụng từ 12% lên 21% trong khi chỉ còn 3 tháng, hay chúng ta đẩy mạnh đầu tư công. Đẩy tín dụng nhưng không xác định tín dụng đi về đâu, không xác định kiểm soát lạm phát về lâu dài rất ảnh hưởng.

“Tôi muốn nói rằng, tăng trưởng thì tốt nhưng tăng trưởng phải bền vững, giải pháp phải căn cơ lâu dài chứ không phải giải pháp ngắn hạn, trước mắt”, ĐB Hoàng Quang Hàm thẳng thắn. 

Nguyên nhân thứ hai được ĐB Hoàng Quang Hàm chỉ ra, đó là mô hình tăng trưởng không bền vững nên dễ bị tổn thương, chưa xuất phát từ nội lực của nền kinh tế. Do vậy, chúng ta phải đẩy mạnh xu hướng tăng trưởng bền vững nội lực của nền kinh tế chứ không phải quá phụ thuộc vào yếu tố tác động từ bên ngoài. Trong năm 2018, khi giảm khai thác dầu thô, khoáng sản, chúng ta vẫn giữ tăng trưởng về vốn 33 - 34%, trong khi năm 2017 là 33,4%. “Như vậy chúng ta vẫn chưa thoát khỏi tư duy tăng trưởng từ vốn và lệ thuộc khai thác tài nguyên”, ĐB Hoàng Quang Hàm nhận định.

3 hạn chế và 3 điểm sáng

Thời gian qua, nền kinh tế có 3 thách thức lớn. Thứ nhất, nền kinh tế giá trị kim ngạch xuất nhập khẩu gấp 1,7 lần GDP trong khi tình hình kinh tế - xã hội diễn biến phức tạp, khó lường. Thứ hai, ô nhiễm môi trường, biến đổi khí hậu ngày càng diễn biến phức tạp ảnh hưởng đến sản xuất nông nghiệp và đời sống nhân dân. Thứ ba, nợ xấu tín dụng cao, cần tập trung xử lý nhưng phải bảo đảm an toàn hệ thống doanh nghiệp, tiền gửi cho nhân dân. Nợ công sát trần nhưng nhu cầu đầu tư kết cấu hạ tầng ngày càng lớn.

ĐBQH Trần Hoàng Ngân (TP Hồ Chí Minh) Ảnh: Quang Khánh
ĐBQH Trần Hoàng Ngân (TP Hồ Chí Minh) Ảnh: Quang Khánh

Điều đó cho thấy, “những kết quả đạt được trong năm 2017 là đáng trân trọng”, ĐBQH Trần Hoàng Ngân (TP Hồ Chí Minh) nhìn nhận, đồng thời chia sẻ về 3 điểm sáng: (1) GDP có khả năng đạt 6,7%; (2) tiếp tục ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, bảo đảm an sinh xã hội, kéo giảm lãi suất; (3) cải thiện tốt cán cân thương mại, trong 10 tháng qua thặng dư được khoảng 1,2 tỷ USD, tỷ giá duy trì sự ổn định, kỷ luật tài chính được kiểm soát chặt chẽ hơn. Do đó, chúng ta tiết kiệm được bội chi ngân sách khoảng 4 nghìn tỷ đồng, đặc biệt kéo giảm nợ công từ 63,6% năm 2016 xuống 62,6% năm 2017.

Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả kết đạt được, ĐB Trần Hoàng Ngân cho rằng, vẫn còn những hạn chế, tồn tại. Đó là, quản lý nhà nước trên một số lĩnh vực còn một số hạn chế như quản lý đô thị, quy hoạch, tài nguyên, đất đai… Đó là thực thi pháp luật vẫn là khâu yếu, kỷ luật kỷ cương hành chính chưa nghiêm trong khi đó tổ chức bộ máy còn cồng kềnh, nhiều tầng nấc, đầu mối… Đó là khu vực sản xuất kinh doanh trong nước còn khó khăn, năng lực cạnh tranh thấp, còn nhiều dự án thua lỗ kéo dài.

Về kế hoạch kinh tế - xã hội năm 2018, đồng tình với mục tiêu tổng quát là ổn định kinh tế vĩ mô, nâng cao chất lượng tăng trưởng, giữ vững độc lập chủ quyền, bảo đảm an ninh quốc phòng, song ĐB Trần Hoàng Ngân đề nghị, liên quan đến GDP năm 2018 mạnh dạn đặt chỉ tiêu 6,7%, chứ không nên để 6,5-6,7% như đề xuất của Chính phủ. Bởi lẽ, tổng vốn đầu tư xã hội của chúng ta còn tiếp tục để thực hiện 33 - 34%. Đồng thời, chỉ số ICOR đã thay đổi theo hướng tích cực. Theo dự báo của Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) vào tháng 10, kinh  tế thế giới năm 2018 sẽ tăng trưởng cao hơn 2017.

Về bội chi ngân sách, Chính phủ nên tiếp tục kéo giảm bội chi, đưa ra các kế hoạch để thực hiện, phải giữ mức bội chi ở mức 3,5%. Trong tổng chi ngân sách hiện nay, dự kiến trong năm 2018 là 1 triệu 500 nghìn tỷ đồng. Như vậy, “chỉ cần tiết kiệm 1% là chúng ta tiết kiệm được 15 nghìn tỷ đồng”, ĐB Trần Hoàng Ngân chỉ rõ.

Cơ bản nhất trí với 10 giải pháp Chính phủ đề ra, song ĐB Trần Hoàng Ngân kiến nghị thêm 3 giải pháp: Trước hết, Chính phủ cần có giải pháp đồng bộ để nâng cao năng lực cạnh tranh doanh nghiệp Việt Nam, cụ thể là doanh nghiệp nhỏ và vừa. Chúng ta phải hỗ trợ doanh nghiệp hoạt động khởi nghiệp và năng lực tiếp cận các ngành công nghiệp lần thứ 4, cần có chính sách về tài chính, tín dụng để hỗ trợ doanh nghiệp tiếp cận công nghệ hiện đại, trong đó có lãi suất.

Thứ hai, cần tiếp tục quan tâm và đầu tư nhiều hơn nữa vào lĩnh vực nông nghiệp. Đây là lợi thế quốc gia nhưng hiện nay chúng ta bị nhiều nước qua mặt về chất lượng và giá bán. Do vậy, Chính phủ cần có chính sách để đẩy mạnh ứng dụng khoa học công nghệ vào lĩnh vực nông nghiệp. Đồng thời, tiếp tục tăng đầu tư kết cấu hạ tầng vào khu vực đồng bằng sông Cửu Long.

Cuối cùng là nâng cao hiệu quả sử dụng vốn.

“Vẫn là có tiền mà không tiêu được”

“Báo cáo của Chính phủ tại kỳ họp lần này cho thấy, năm nay là năm được mùa lớn”, ĐBQH Vũ Tiến Lộc (Thái Bình) nhận định. Dẫn chứng là lần đầu tiên sau nhiều năm, tất cả 13 chỉ tiêu QH giao cho Chính phủ có khả năng rất cao là sẽ đạt và vượt kế hoạch. Chỉ số môi trường kinh doanh của Việt Nam theo xếp hạng của Ngân hàng Thế giới năm nay tăng 14 bậc. Cùng với Indonesia, Việt Nam là nền kinh tế có những bước cải cách mạnh mẽ nhất trong khu vực. Đây là kết quả của những nỗ lực vượt bậc, là điều rất đáng mừng.

ĐBQH Vũ Tiến Lộc (Thái Bình) Ảnh: Quang Khánh
ĐBQH Vũ Tiến Lộc (Thái Bình) Ảnh: Quang Khánh

Nhưng theo ĐB Vũ Tiến Lộc, thì hành trình cải cách vẫn còn rất gian nan và mọi việc không thể giải quyết trong một sớm một chiều. Và vì vậy điều đáng mừng nhất là Chính phủ đã không quá lạc quan với thành tích này.

Mặc dù những thành công trong kiểm soát lạm phát, ổn định tỷ giá là vững chắc, nhưng ở đâu đó vẫn còn băn khoăn, lo lắng về triển vọng tăng trưởng kinh tế trong những năm tới.

Trong bức tranh tổng thể về những vấn đề của nền kinh tế thời gian qua, ĐB Vũ Tiến Lộc tập trung vào một “nỗi lo” khác, đó là tình hình tài khoá của đất nước hiện nay.

Đọc các báo cáo của Chính phủ, không khó để nhận thấy, tình hình thu - chi ngân sách nhà nước và nợ công vẫn chưa có nhiều thay đổi so với những năm gần đây. Vẫn là chi thường xuyên chiếm tỷ trọng cao tới hơn 64%; vẫn là nợ công đang sắp đụng trần 65% GDP mà QH cho phép; vẫn là tốc độ giải ngân vốn đầu tư công chậm chạp, tức là có tiền mà vẫn không làm sao tiêu được.

“Nhưng điều đáng nói là, năm nào chúng ta cũng muốn tiêu tiền nhiều hơn năm trước và dường như càng nhiều thì càng tốt. Tốc độ tăng thu - chi ngân sách nhà nước cao luôn được coi là thành tích”, ĐB Vũ Tiến Lộc chỉ rõ.

Câu hỏi đặt ra là: Trong bối cảnh nợ công đang ở gần sát mức trần như hiện nay, tại sao lại coi việc thu - chi ngân sách nhà nước tăng 10% là tốt hơn so với chỉ tăng 7 - 8%? Trong năm nay, khi thu ngân sách nhà nước dự kiến sẽ vượt dự toán khoảng 23 nghìn tỷ đồng, thì số chi ngân sách nhà nước dự kiến cũng được điều chỉnh tăng theo. Tại sao chúng ta không sử dụng khoản vượt thu này để giảm nợ công?

Với tư duy thu - chi như vậy, bao giờ chúng ta mới có thể đưa nợ công về mức có thể an tâm? Chúng ta còn bao nhiêu đất đai có thể mang lại nguồn thu? Liệu việc thu cổ tức của các ngân hàng đang gặp rất nhiều khó khăn vì nợ xấu để trả lương cho công chức, hay bán tài sản của các doanh nghiệp nhà nước để lấy tiền đầu tư sẽ kéo dài được bao lâu?

Dẫn ra hàng loạt câu hỏi như vậy, ĐB Vũ Tiến Lộc cho rằng, “vấn đề cân đối ngân sách nhà nước và giảm nợ công để bảo đảm an toàn là rất cấp bách trong bối cảnh hiện nay”.

Nhưng vì “miệng ăn núi lở”, nên theo ĐB Vũ Tiến Lộc, “tình hình tài khóa của đất nước hiện nay lại không phụ thuộc nhiều vào Bộ Tài chính, mà chủ yếu phụ thuộc vào năng lực cắt giảm biên chế và tinh gọn bộ máy của Bộ Nội vụ”.

Rất mừng là tại Hội nghị Trung ương 6, Khóa XII vừa qua, Trung ương đã có những quyết sách quan trọng mở đường cho việc giải quyết vấn đề này và trong thảo luận tại hội trường ngày hôm qua về cải cách bộ máy hành chính, nhiều chủ trương, chính sách và giải pháp lớn đã được đề cập khá sâu sắc.

Để chủ trương của Đảng và Nghị quyết của QH có thể đi vào cuộc sống, ĐB Vũ Tiến Lộc đề nghị Chính phủ cần xây dựng kế hoạch và chỉ tiêu cụ thể về cắt giảm biên chế, đồng thời quy trách nhiệm cụ thể cho từng lãnh đạo bộ, ngành, địa phương, xuống đến tận cấp xã, phường trong thực hiện, giống như cách mà Thủ tướng và Chính phủ đã áp đặt mệnh lệnh cho các bộ, ngành chỉ tiêu phải cắt giảm tối thiểu 30 - 50% các thủ tục hành chính và điều kiện kinh doanh trong vòng 2 năm tới.

Cụ thể, thúc đẩy cải cách theo 3 tuyến giải pháp cơ bản. Một là, thực hiện Chính phủ điện tử, đẩy mạnh phân cấp, phân quyền, kiên quyết cắt giảm thủ tục hành chính và điều kiện kinh doanh không cần thiết để “cởi trói” cho người dân và doanh nghiệp.

Hai là, giải phóng các bộ, ngành ra khỏi chức năng chủ quản doanh nghiệp nhà nước, chuyển giao chức năng này cho các công ty đầu tư tài chính để vận hành theo nguyên tắc thị trường, không thành lập thêm siêu ủy ban - siêu bộ.

Ba là, thực hiện xã hội hóa dịch vụ công theo hướng cái gì dân và doanh nghiệp làm được thì Chính phủ không làm. Tái cấu trúc chính bộ máy của Nhà nước theo hướng đó làm cho Nhà nước sẽ bớt ôm đồm, sẽ thanh thoát lại, tập trung vào chức năng chính chốt là làm thể chế, chăm lo các vấn đề thuộc về đại sự quốc gia.

“Đó là những dư địa còn rất lớn để có thể khởi động một cuộc cách mạng thực sự trong cải cách bộ máy hành chính nâng cao hiệu quả hoạt động và tinh giảm biên chế. Và chỉ như vậy, chúng ta mới có thể cân đối ngân sách nhà nước, bảo đảm an toàn nợ công mà không cần phải tăng thuế VAT, thuế bảo vệ môi trường và nhiều loại thuế, phí khác làm người dân bức xúc”, ĐB Vũ Tiến Lộc nhận định.

Chính sách đầu tư vào nông nghiệp đã có, nhưng khó tiếp cận

Cùng mối quan tâm với nông nghiệp, các ĐBQH Nguyễn Như So (Bắc Ninh), Phan Ngọc Thọ (Thừa Thiên - Huế)… cho rằng, cơ cấu lại nền kinh tế bước đầu phát huy hiệu quả thể hiện rõ nét trong sản xuất nông nghiệp. Tuy nhiên, nông nghiệp là lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro trong bối cảnh biến đổi khí hậu ngày càng tác động rõ nét. Do đó, cần tiếp tục có những giải pháp căn cơ trong cơ cấu lại ngành gắn với phát triển bền vững nông nghiệp, lấy giá trị sản xuất trên diện tích canh tác để đánh giá hiệu quả sử dụng đất, thích ứng với cơ chế thị trường.

ĐBQH Nguyễn Như So (Bắc Ninh) Ảnh: Quang Khánh
ĐBQH Nguyễn Như So (Bắc Ninh) Ảnh: Quang Khánh

“Dư địa để tăng trưởng của ngành chế biến, chế tạo sẽ không còn nhiều, nếu chúng ta không tiếp tục và tập trung cơ cấu lại nhằm khơi dậy nguồn lực trong dân và doanh nghiệp trong nước trong bối cảnh tiến bộ khoa học công nghệ đang là cơ hội nâng cao giá trị gia tăng trong lĩnh vực chế tạo, chế biến hiện còn nhiều bỏ ngỏ ở nước ta”, ĐB Phan Ngọc Thọ lưu ý. Bên cạnh đó, Chính phủ cần có lộ trình cụ thể, khả thi xử lý dứt điểm các dự án đầu tư kém hiệu quả, thua lỗ kéo dài, không có khả năng cơ cấu lại nhằm hạn chế hậu quả lâu dài, nâng cao năng lực ngành sản xuất chế tạo, chế biến.

Ghi nhận việc chuyển đổi một số diện tích nông, lâm sản đã giúp ngành này tăng 5,46% so với năm 2016, tuy nhiên điều khiến ĐB Nguyễn Như So băn khoăn, thì đây đã phải là hướng đi đúng, an toàn chưa, khi sản xuất nông nghiệp vẫn dựa vào tự nhiên, quy hoạch chưa tốt, đầu tư còn khó khăn, chưa kể là các rào cản thuế quan từ nước nhập khẩu? Phát triển nông nghiệp công nghệ cao, nông nghiệp hữu cơ, công nghiệp sinh học, tạo điều kiện phát triển nông sản sạch, an toàn là hướng đi đúng, nhưng phải xác định chỉ tiêu cụ thể như thị trường, môi trường, quy mô, đặc trưng địa lý mới có thể triển khai hiệu quả.

ĐB Nguyễn Như So cũng cho rằng, phải giải quyết được một số vấn đề, mà trước hết là lựa chọn đúng sản phẩm, khâu đột phá theo quy trình và công nghệ cao để áp dụng thí điểm, tránh tình trạng chạy theo công nghệ cao đắt đỏ, kinh phí cao, dẫn đến hiệu quả sản xuất thấp.

Một thực tế khác cũng được ĐBQH chỉ ra, đó là phát triển nông nghiệp công nghệ cao đòi hỏi có vốn lớn, nhưng vốn đầu tư trực tiếp vào ngành đang rất thấp. Ngành nông nghiệp đang đóng góp 18% GDP, nhưng đầu tư vào nông nghiệp chỉ đạt 5% GDP, trong khi đó, nông nghiệp Hàn Quốc chỉ đóng góp 2% GDP, mà đầu tư gấp 3 lần so với mức đóng góp vào GDP của ngành. Các chính sách ưu đãi đầu tư vào nông nghiệp đã ban hành, nhưng khó tiếp cận, vì điều kiện cho vay ngặt nghèo.

Từ thực trạng này, ĐB Nguyễn Như So kiến nghị, cần sớm thực hiện những luật lệ hỗ trợ, bảo đảm tính khả thi của chính sách, có cơ chế hỗ trợ đầu tư vào nông nghiệp, chuyển chủ thể chính là nông hộ sang doanh nghiệp nông nghiệp, sớm triển khai bảo hiểm nông sản, thủy sản.

Chất lượng tăng trưởng phải là mục tiêu xuyên suốt

Nhấn mạnh tầm quan trọng của chất lượng tăng trưởng, ĐBQH Phan Ngọc Thọ (Thừa Thiên - Huế) cho rằng, phải tính yếu tố lâu dài cho chất lượng tăng trưởng là năng suất lao động và nguồn nhân lực. Những nhân tố này không những bảo đảm chất lượng tăng trưởng kinh tế mà còn là yếu tố ổn định xã hội thông qua tạo việc làm, nâng cao thu nhập cho người lao động.

ĐBQH Phan Ngọc Thọ (Thừa Thiên - Huế) Ảnh: Quang Khánh
ĐBQH Phan Ngọc Thọ (Thừa Thiên - Huế) Ảnh: Quang Khánh

Theo đó, cần rà soát tổng thể chương trình giải quyết việc làm gắn liền với giải pháp nâng cao năng suất lao động, bảo đảm sự đồng bộ trong tổ chức thực hiện. Khẳng định tạo việc làm và tăng năng suất lao động là trách nhiệm của toàn xã hội, đặc biệt vai trò của các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất kinh doanh.

Có giải pháp khắc phục những bất hợp lý trong cơ cấu lao động, cơ cấu đào tạo đại học và dạy nghề. Không có thương hiệu, thiếu sáng tạo, chất lượng lao động, hàm lượng công nghệ trong sản xuất thấp… là những nguyên nhân làm cho giá trị sản xuất của lực lượng lao động ở Việt Nam khó cải thiện, năng suất lao động khó bắt kịp các nước phát triển trong khu vực.

Cho rằng tăng năng suất lao động đang là thách thức của nền kinh tế Việt Nam, ĐB Phan Ngọc Thọ đề nghị, “cần thay đổi quan niệm về lợi thế của lao động giá rẻ khi chúng ta đang ở giữa cuộc cách mạng 4.0”.

Cứ 2 doanh nghiệp thành lập mới có 1 doanh nghiệp ngừng hoạt động

Tại Phiên họp chiều nay, các ĐB Trần Văn Tiến (Vĩnh Phúc), Thạch Phước Bình (Trà Vinh), Nguyễn Thị Kim Bé (Kiên Giang)... tiếp tục bày tỏ đồng tình với kết quả như Báo cáo của Chính phủ đã nêu, đặc biệt là tốc độ tăng trưởng kinh tế quý sau cao hơn quý trước, và với đà tăng trưởng như hiện nay, năm 2017 có thể đạt 6,7%  như Nghị quyết QH đề ra.

ĐBQH Trần Văn Tiến (Vĩnh Phúc) Ảnh: Quang Khánh
ĐBQH Trần Văn Tiến (Vĩnh Phúc) Ảnh: Quang Khánh

Tuy nhiên, một trong những vấn đề băn khoăn được ĐBQH nêu ra, đó là số lượng doanh nghiệp đăng ký thành lập mới tăng lên, nhưng các doanh nghiệp tạm ngừng hoạt động và chờ giải thể có xu hướng tăng cao. Báo cáo của Chính phủ cho thấy, trong 9 tháng năm 2017, số doanh nghiệp tạm ngừng hoạt động là 49.345 doanh nghiệp, tăng 9,4% so với cùng kỳ năm 2016. Số doanh nghiệp tạm ngừng hoạt động không đăng ký hoặc chờ giải thể là 30.846 doanh nghiệp, tăng 7,1% so với cùng kỳ năm 2016. “Cứ có 2 doanh nghiệp được thành lập mới thì 1 doanh nghiệp ngừng hoạt động”, ĐB Trần Văn Tiến nêu rõ.

Bên cạnh đó, các đại biểu tiếp tục phản ánh về tình trạng giao vốn trái phiếu Chính phủ còn chậm, chỉ đạt 38,8% dự toán, việc giải ngân vốn đầu tư còn thấp, 9 tháng ước đạt 46,6% dự toán, trong đó giải ngân vốn đầu tư xây dựng cơ bản đạt 53,1%, vốn trái phiếu Chính phủ đạt 7% dự toán. Hiệu quả sử dụng đồng vốn đầu tư công thấp, hệ số ICOR năm 2017 là 6,27%. Một số khoản thu đạt thấp, một số khoản thu không đạt hiệu quả như thu bán vốn nhà nước đạt 16,7%...

Qua tiếp xúc cử tri, các ĐBQH cũng nhận thấy bà con còn băn khoăn, bức xúc trước tình trạng hàng gian, hàng giả, hàng kém chất lượng tràn lan trên thị trường, nhất là với những yếu tố đầu vào sản xuất nông nghiệp (phân bón, thuốc trừ sâu, thuốc thu ý, thức ăn thủy sản...).

Theo ĐBQH Thạch Phước Bình, có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng này, trong đó chủ yếu do cơ chế quản lý còn nhiều bất cập, quy định pháp luật chưa chặt chẽ, chế tài xử phạt chưa đủ sức răn đe. Để khắc phục tình trạng này đề nghị Chính phủ và các ngành chức năng nghiên cứu sửa đổi, bổ sung các quy định pháp luật theo hướng tăng nặng hình thức xử phạt để đủ sức răn đe với những đối tượng phân phối, sản xuất hàng gian, hàng giả.

ĐBQH Nguyễn Thị Kim Bé (Kiên Giang) Ảnh: Quang Khánh
ĐBQH Nguyễn Thị Kim Bé (Kiên Giang) Ảnh: Quang Khánh

Nhìn nhận chỉ số tăng trưởng ước đạt 6,7% của năm nay, mặc dù được phân tích có nhiều khả quan, nhưng ĐBQH Nguyễn Thị Kim Bé nhận thấy, đây phải là sự nỗ lực, phấn đấu không nhỏ trong quý IV. Vì rằng, tăng trưởng của ngành nông nghiệp tiềm ẩn nhiều rủi ro từ diễn biến của biến đổi khí hậu là một trong những áp lực lớn để phấn đấu đạt mục tiêu tăng trưởng GDP 6,7%.

Xác lập quyền sở hữu về tài sản đầu tư trên đất để gỡ vướng cho doanh nghiệp

Thực hiện chủ trương tái cơ cấu nền kinh tế, tái cơ cấu nông nghiệp, nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững, đất đai luôn được xác định là nguồn lực quan trọng. Thời gian qua, chính sách pháp luật về đất đai đã cơ bản được hoàn thiện phù hợp hơn với cơ chế thị trường, định hướng XHCN, thông qua đó, đã tạo điều kiện cho người sử dụng đất thực hiện tích tụ đất đai theo quy mô lớn và yên tâm hơn khi đầu tư vào đất đai.

Đề cập đến những thách thức của ngành nông nghiệp trước tác động mạnh của biến đổi khí hậu, hội nhập kinh tế quốc tế, ĐB Nguyễn Tuấn Anh (Bình Phước) nêu rõ, để phát triển bền vững, không còn con đường nào khác là phải tổ chức lại sản xuất, trong đó tích tụ ruộng đất là một nội dung rất quan trọng để phát triển nông nghiệp hàng hóa quy mô lớn, gắn với bảo đảm việc làm, thu nhập cho nông dân. Tuy nhiên, thực tế giải quyết vấn đề này rất chậm, gây khó khăn cho nông dân và doanh nghiệp.

ĐBQH Nguyễn Tuấn Anh (Bình Phước) Ảnh: Quang Khánh
ĐBQH Nguyễn Tuấn Anh (Bình Phước) Ảnh: Quang Khánh

Theo Luật Đất đai năm 2013, hạn mức giao đất trồng cây lâu năm cho mỗi gia đình, cá nhân không quá 10ha đối với xã, phường, thị trấn ở đồng bằng, không quá 30ha đối với xã, phường, thị trấn ở trung du miền, miền núi. Quy định như vậy không còn phù hợp trong bối cảnh hiện nay. Chủ trương của chúng ta là xây dựng cánh đồng mẫu lớn, vùng chuyên canh cây công nghiệp, vùng nguyên liệu sản xuất hàng hóa nhằm truy xuất nguồn gốc cũng như chủ động vùng nguyên liệu. Tuy nhiên, theo khảo sát ở Bình Phước và một số địa phương cho thấy, thực hiện chủ trương này gặp rất nhiều khó khăn do vướng hạn mức giao đất.

Cũng theo ĐB Nguyễn Tuấn Anh, một bất cập trong chính sách về đất đai mà các doanh nghiệp nhỏ và vừa đang rất vướng hiện nay là, phải thuê đất của chính mình đã bỏ tiền ra để nhận quyền chuyển nhượng quyền sử dụng đất của người khác khi xây dựng xưởng sản xuất, thành lập doanh nghiệp. Nhiều doanh nghiệp cho biết, để thành lập doanh nghiệp họ phải đầu tư hàng chục tỷ đồng để mua đất xây dựng nhà xưởng sản xuất. Tuy nhiên, khi trở thành doanh nghiệp, diện tích đất tiền tỷ đó trở về giá trị bằng 0 vì chuyển sang thuê, trả tiền hàng năm hoặc một lần vì họ không có tài sản đối ứng trong giai đoạn bước đầu hình thành doanh nghiệp. Điều này đã tước đi điều kiện quan trọng họ được vay vốn ngân hàng để đầu tư sản xuất mà đối với doanh nghiệp khởi nghiệp, doanh nghiệp nhỏ và vừa thì đây là nguồn lực rất lớn.

Việc tích tụ ruộng đất có thể có nhiều cách như: thông qua hợp tác, liên kết nông hộ, liên minh nông hộ và doanh nghiệp để dẫn đến tăng quy mô ruộng đất, xuất hiện các trang trại của nông dân và doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp. Nhưng với những hạn chế, bất cập như hiện nay, theo ĐB Nguyễn Tuấn Anh, nếu không được tháo gỡ kịp thời, đồng bộ sẽ rất khó tích tụ được ruộng đất để sản xuất bền vững.

Toàn cảnh Phiên họp sáng 31.10 Ảnh: Quang Khánh
Toàn cảnh Phiên họp sáng 31.10 Ảnh: Quang Khánh

Khẳng định chủ trương hỗ trợ của Nhà nước để tổ chức sản xuất có ý nghĩa rất lớn, song ĐB Nguyễn Tuấn Anh cũng cho rằng, cần tiếp tục hoàn thiện chính sách, pháp luật về đất đai. Trong đó, đại biểu kiến nghị QH 3 nội dung: một là, xác lập quyền sở hữu về tài sản đầu tư trên đất (nội dung này cũng đã được ĐB kiến nghị QH tại Kỳ họp thứ 3, QH Khóa XIV); hai là, xác lập giá trị quyền sử dụng đất khi tham gia doanh nghiệp; ba là, cần sớm sửa đổi hạn mức giao đất, hạn mức nhận chuyển quyền sử dụng đất nông nghiệp quy định tại Điều 129 và Điều 130 của Luật Đất đai năm 2013 cùng với các chính sách, pháp luật có liên quan.

Chính sách giảm nghèo – có thực mới vực được đạo

Đề cập đến việc thực hiện chính sách xóa đói giảm nghèo chưa được thể hiện rõ trong Báo cáo của Chính phủ, ĐB Ksor H’Bơ Khăp (Gia Lai) chỉ rõ, hiện nay, chúng ta có tới 9 văn bản gồm 2 Nghị quyết của QH, 1 Nghị quyết của Chính phủ, 1 chỉ thị và 5 quyết định của Thủ tướng Chính phủ và định hướng chung xác định khung chính sách giảm nghèo của cả giai đoạn 2016 – 2020. Tuy nhiên, lấy ví dụ vùng Tây Nguyên, có thể thấy rõ ràng những mặt chưa đạt được trong thực hiện chính sách giảm nghèo. Phát triển kinh tế chưa tích hợp tốt với việc giải quyết các vấn đề xã hội, thực hiện công bằng xã hội và đoàn kết các dân tộc, củng cố vững chắc quốc phòng an ninh. Xảy ra tình trạng phân hóa giàu – nghèo nhanh, giữa đồng bào nơi khác đến định cư, chủ yếu là đồng bào dân tộc Kinh với các đồng bào dân tộc thiểu số tại chỗ. Đời sống của số đông đồng bào dân tộc thiểu số tại chỗ vẫn còn nhiều khó khăn, tình trạng thiếu đất hoặc không có đất canh tác do mua bán, sang nhượng trái phép còn nhiều, tỉ lệ đói nghèo và trẻ em suy dinh dưỡng cao, trình độ dân trí thấp và chậm được cải thiện. ĐB Ksor H’Bơ Khăp chỉ rõ, đây là cảnh báo cho thấy, cần thay đổi việc thực hiện chính sách giảm nghèo để phù hợp với tình hình hiện nay.

ĐBQH Ksor H’Bơ Khăp (Gia Lai) Ảnh: Quang Khánh
ĐBQH Ksor H’Bơ Khăp (Gia Lai) Ảnh: Quang Khánh

 Rừng Tây Nguyên đang bị tàn phá nghiêm trọng. Kể từ khi có Thông báo 191 của Văn phòng Chính phủ về kết luận của Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc tại Hội nghị về các giải pháp khôi phục rừng bền vững ở vùng Tây Nguyên nhằm ứng phó với biến đổi khí hậu giai đoạn 2016 – 2020 thì rừng Tây nguyên bị  mất tăng hơn 50% so với cùng kỳ năm 2016.

ĐB Ksor H’Bơ Khăp (Gia Lai)

Việc tập trung 51 dân tộc anh em sinh sống tại khu vực này đã cho thấy, về cơ cấu dân tộc, Tây Nguyên như là một Việt Nam thu nhỏ. Tuy nhiên, theo ĐB Ksor H’Bơ Khăp, cộng đồng các dân tộc Tây Nguyên cũng đang đứng trước một loạt thách thức. Đó là, tình trạng di cư tự do ở Tây Nguyên vẫn chưa được kiềm chế và kiểm soát hiệu quả. Sự chênh lệch giàu nghèo giữa dân tộc thiểu số tại chỗ và dân tộc thiểu số từ nơi khác đến là vấn đề đáng quan tâm. Mặt khác văn hóa các dân tộc thiểu số không đủ điều kiện được bảo tồn và phát triển hay ít nhất là giữ nguyên hiện trạng. Kinh tế trong vùng dân tộc thiểu số tại chỗ vẫn tự sản, tự tiêu, chậm phát triển so với tiềm năng, tập quán, thói quen lao động sản xuất của đa số người dân trong vùng còn lạc hậu, chậm thay đổi, càng không có đủ điều kiện và năng lực tiếp cận với khoa học công nghệ. Cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động chuyển dịch chậm. Dân trí và giáo dục nhìn chung còn thấp cả về số lượng lẫn chất lượng. Nguồn nhân lực lao động qua đào tạo trong các dân tộc thiểu số rất thấp, chỉ khoảng từ 5 đến dưới 10%. Đời sống văn hóa thường ngày ở dân tộc thiểu số ở nhiều vùng còn bị mai một, trầm lắng và đơn điệu, trái ngược với sắc màu rực rỡ của văn hóa truyền thống của các dân tộc thiểu số ở Tây nguyên, ĐB Ksor H’Bơ Khăp nhấn mạnh.

Trong khi đó, hệ thống chính trị cơ sở, nơi tập trung đông đồng bào dân tộc thiểu số, theo ĐB còn hạn chế. Đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số thiếu hụt, có nơi đã mất nguồn. Chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước rất quyết liệt, nhưng mới giải quyết được phần ngọn, mà “gốc thì sắp mòn mục”. Nhiều năm nay, chúng ta vẫn loay hoay với việc cho cần câu cá hay cho con cá. Sự thật là, không ai có thể giải quyết được nghèo khó bằng chính các hộ nghèo, vùng đặc biệt khó khăn. Vì vậy, ĐB Ksor H’Bơ Khăp đề nghị, cơ chế chính sách phải có sự ràng buộc những điều kiện làm sao phát huy được nội lực của đối tượng, địa bàn lãnh thổ. Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2018 phải quyết liệt hơn nữa để triển khai chủ trương, chính sách giảm nghèo, trong đó, ngân sách phải đi đầu vì có thực mới vực được đạo. Đặc biệt, đối với vùng tập trung đông vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng đồng bào khó khăn, ngân sách xin đừng bỏ rơi họ.

12 dự án thua lỗ của Bộ Công thương xử lý rất chậm

Đồng tình với nhìn nhận thẳng thắn của Chính phủ về 6 nhóm tồn tại hạn chế trong phát triển kinh tế - xã hội thời gian qua, ĐBQH Nguyễn Sơn (Hà Tĩnh) cũng nhấn mạnh một số hạn chế cần được phân tích thấu đáo và có giải pháp xử lý căn cơ. Cụ thể là, chưa tập trung đồng bộ, xử lý các dự án thua lỗ nặng, đặc biệt là 12 dự án của Bộ Công thương đến nay, việc xử lý rất chậm. Các bộ, ngành rà soát còn bao nhiêu dự án thua lỗ? Và đã có giải pháp như thế nào? Theo ĐB Nguyễn Sơn, phải có giải pháp quyết liệt gắn với cổ phần hóa, cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước để báo cáo với QH và thông tin tới cử tri.

ĐBQH Nguyễn Sơn (Hà Tĩnh) Ảnh: Quang Khánh
ĐBQH Nguyễn Sơn (Hà Tĩnh) Ảnh: Quang Khánh

Cũng theo ĐB Nguyễn Sơn, Chính phủ quyết liệt nhưng còn một số bộ ngành, cơ quan Trung ương, địa phương vẫn chưa sâu sát, chưa chủ động tháo gỡ cho người dân, chậm xử lý kiến nghị đề xuất. Vì vậy, ngoài giải pháp về kinh tế vĩ mô, ổn định, cơ cấu lại nền kinh tế, tiếp tục phát triển chỉ tiêu kinh tế - xã hội năm 2018, ĐB đề nghị sớm khắc phục những yếu kém trên, tạo niềm tin, động lực cho tăng trưởng bền vững với giải pháp thiết thực, kịp thời từ Chính phủ xuống đến các bộ, ngành, địa phương.

Càng lỗ doanh nghiệp FDI càng mở rộng sản xuất

Nhiều ĐBQH cũng chỉ rõ, trong những ngày qua, thông tin về kết quả tăng trưởng của nền kinh tế được Thủ tướng Chính phủ trình bày trong ngày khai mạc Kỳ họp thứ 4 đã tạo ấn tượng mạnh. Chính phủ đã tích cực triển khai các giải pháp tạo chuyển biến về cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, cắt giảm các thủ tục hành chính, loại bỏ các rào cản bất hợp lý và tăng tính đối thoại giữa Chính phủ, các bộ, ngành, địa phương với cộng đồng doanh nghiệp đã tiếp tục tạo ra những tín hiệu tích cực. Nhờ đó, số lượng doanh nghiệp thành lập mới tăng nhanh, doanh nghiệp quay trở lại hoạt động nhiều hơn, dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài và nguồn vốn gián tiếp đều tăng mạnh.

ĐBQH Phạm Trọng Nhân (Bình Dương) Ảnh: Quang Khánh
ĐBQH Phạm Trọng Nhân (Bình Dương) Ảnh: Quang Khánh

 “Không thể phủ nhận, FDI là bổ trợ quan trọng cho cả quá trình tăng trưởng của nước ta. Sau 25 năm khu vực này đã đóng góp cho GDP từ 2% vào năm 1992 lên 20% vào năm 2016, giải quyết việc làm cho 2 triệu lao động, góp phần nâng thu nhập bình quân đầu người lên 2.000 USD. Tuy nhiên, dự kiến chiếm 25% tổng vốn đầu tư toàn xã hội, 70% kim ngạch xuất khẩu, 50% giá trị sản xuất công nghiệp, nhưng thực tế chỉ đón góp vào ngân sách từ 15 - 19%”.

ĐBQH Phạm Trọng Nhân (Bình Dương)

Cụ thể, đầu tư trực tiếp của nước ngoài (FDI) từ đầu năm đến thời điểm 20.9.2017 thu hút 1.844 dự án cấp phép mới với số vốn đăng ký đạt 14,6 tỷ USD, tăng 1,3% về số dự án và tăng 30,4% về vốn đăng ký so với cùng kỳ năm 2016. Năm 2017 ước vốn đầu tư thực hiện thông qua góp vốn mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài khoảng 3 tỷ USD. Đặc biệt, số lượng vốn đầu tư nước ngoài đã tăng mạnh, con số hơn 25 tỷ USD vốn đầu tư nước ngoài (tăng 31,3%), và vốn giải ngân cũng tăng mạnh vượt 13,4% so với cùng kỳ. Theo ĐBQH Phạm Trọng Nhân (Bình Dương), “đây được cho là nguyên nhân giữ vững sự tăng trưởng của nền kinh tế, nhưng sau cơn địa chấn của FDI lại là nỗi lo âm ỉ của nhà quản lý, chuyên gia và nhà đầu tư trong nước”.

Vì một khi hoàn thành tốc độ tăng trưởng, thì giá trị nội tại mang lại cho nền kinh tế, đời sống của người dân làm sao? “Đột ngột giảm rồi đột ngột tăng GDP của quốc gia chỉ vì sản phẩm của doanh nghiệp FDI thực sự là nỗi lo đáng ngại trên thực tế”, ĐB Phạm Trọng Nhân nói. Thống kê trong giai đoạn 2015 - 2017 cho thấy, cả nước có khoảng 50% số doanh nghiệp FDI kê khai lỗ. Trong đó có những doanh nghiệp thua lỗ liên tục trong nhiều năm liền, nhưng “điểm ngược đời là càng lỗ thì doanh nghiệp FDI càng mở rộng sản xuất”.

Chưa hết, thống kê trong 1.000 doanh nghiệp nộp thuế thu nhập doanh nghiệp lớn nhất ở Việt Nam năm 2015 cho thấy một nghịch lý là khối doanh nghiệp FDI có số lượng nhiều nhất, chiếm 46%, nhưng tỷ lệ góp vào tổng thuế thu nhập doanh nghiệp chỉ chiếm 37% và có xu hướng giảm dần. Thống kê của tổ chức nước ngoài cho thấy, mỗi năm Việt Nam bị thất thu 170 tỷ USD vì hiện tượng chuyển giá.

Ở một câu chuyện khác, chỉ tiêu tăng trưởng tổng hợp từ nhiều yếu tố, trong đó có tổng kim ngạch xuất khẩu, con số 70% tổng kim ngạch xuất khẩu của FDI giúp Việt Nam tăng trưởng đã bị chuyển giá, nên lợi nhuận từ con số này vô cùng thấp. Vì vậy, dù có thu 20% thuế thu nhập từ con số này thì giá trị cũng không đáng là bao, thậm chí là 0% khi bị báo cáo lỗ, còn 80% thu nhập doanh nghiệp được chuyển về chính quốc, ĐB Phạm Trọng Nhân chỉ rõ. Và số 20% thu được từ đây cùng các khoản thu khác phải đang gồng gánh cho gần 70% chi thường xuyên từ ngân sách. Con số ít ỏi còn lại không đủ chi cho đầu tư và trả nợ. Câu chuyện của nền kinh tế đang vướng trong “bẫy thu nhập trung bình” và sẽ còn bị giữ chặt trong thời gian dài. “Nguyên nhân chính xuất phát từ đây”, ĐB Phạm Trọng Nhân nói.

Một trong những mục tiêu thu hút đầu tư là hấp thụ và chuyển giao công nghệ. Thế nhưng, theo thống kê 80% số doanh nghiệp FDI sử dụng công nghệ ở mức trung bình thế giới, 14% ở mức thấp và lạc hậu, 5 - 6% là công nghệ cao. Tuy mang tiếng là công nghệ cao, nhưng thực chất các công đoạn thực hiện ở Việt Nam chỉ đa phần là khâu lắp ráp. Thế nên, Việt Nam từ vị trí 57 trên toàn cầu về tiêu chí, hiệu quả chuyển giao công nghệ tụt xuống vị trí 103 năm 2014 và 46 bậc sau 5 năm, thấp hơn nhiều so với Malaysia, Thái Lan, Indonesia, Campuchia là điều không quá ngạch nhiên.

“Thử nhìn lại chính sách mà Nhà nước ưu đãi đặc thù cho FDI bao gồm cho phép chuyển lỗ, miễn đánh thuế ra nước ngoài, hoàn thuế cho lợi nhuân tái đầu tư. Chúng ta cứng nhắc, khắt khe với chính người nhà của mình, người luôn đồng cam cộng khổ và có nhiều đóng góp cho kinh tế”, ĐB Phạm Trọng Nhân đánh giá.

Dẫn ra câu chuyện của Tập đoàn Viettel “vỡ mộng” vì bị Bộ Tài chính “bác” xin ưu đãi thuế như Samsung, hay khoản đầu tư 500 tỷ cho khoa học công nghệ của Gốm sứ Minh Long không được hỗ trợ chỉ vì thiếu vài thủ tục hành chính, ĐB Phạm Trọng Nhân cho rằng, đây là ví dụ cho thấy việc gánh vác vai trò là động lực chính cho nền kinh tế còn khó khăn đến chừng nào. Vừa bị thất thu thuế, công nghệ lạc hậu, cạn kiệt tài nguyên, nhân công rẻ, thiếu công bằng trong ưu đã đầu tư và cuối cùng là hệ lụy từ môi trường. “Điều này có công bằng cho đất nước và người dân? Đã đến lúc phải suy xét trước khi quá muộn”, ĐB Phạm Trọng Nhân hỏi và cảnh báo.

Với hiện trạng nêu trên, nhiều đại biểu tán đồng với nhiều giải pháp của Chính phủ và kiến nghị “không thu hút đầu tư bằng mọi giá”, thu hút các lĩnh vực, các ngành thân thiện với môi trường, có sẵn chuỗi liên kết, sẵn sàng kết nối với doanh nghiệp Việt Nam, đồng thời cần có cam kết chuyển giao công nghệ và tỷ lệ nội địa hóa. Trên hết ưu tiên các lĩnh vực phù hợp với mục tiêu Đề án tái đầu tư nền kinh tế. Đó là những điều cần có trên bàn đàm phán.

Còn về phía nội lực, “chúng ta không có cách nào khác là phải sẵn sàng cho cuộc đua này”, ĐB Phạm Trọng Nhân kiến nghị, “nếu không có một định hướng rõ ràng, cho dù có 1 triệu doanh nghiệp theo Nghị quyết 35 thì chỉ có ý nghĩa cho sự thay đổi về lượng, thiếu thay đổi về chất, bảo đảm cho quá trình tăng trưởng”.

Nghị quyết Trung ương 5, Khóa XII về phát triển kinh tế tư nhân trở thành động lực quan trọng của nền kinh tế, cùng những chỉ đạo quyết liệt, cam kết kiến tạo môi trường kinh doanh công bằng của người đứng đầu Chính phủ đã thổi luồng sinh khí mạnh mẽ vào môi trường đầu tư kinh doanh. “Tôi thực sự xúc động, vui mừng, sự quyết tâm của cộng đồng doanh nhân trẻ, sự quyết tâm đồng hành của Chính phủ qua việc công bố “sách trắng”, tổ chức Diễn đàn kinh tế tư nhân lần 2, và mới hôm qua là ra mắt cộng đồng Ban nghiên cứu phát triển kinh tế tư nhân của Hội đồng tư vấn cải cách thủ tục hành chính của Chính phủ là minh chứng hùng hồn nhất cho những cam kết và quyết tâm này”, ĐB Phạm Trọng Nhân nêu rõ.

Song cũng theo ĐB Phạm Trọng Nhân, thì điều còn lại là làm sao luồng sinh khí liên tục bền vững và lan tỏa, tạo điều kiện cho kinh tế tư nhân phát triển lớn mạnh. Đây là điều kiện cơ bản nhất của hoạt động kiến tạo - điều mà Chính phủ đang từng ngày cam kết với doanh nghiệp và người dân. “Làm sao để rời vai những gã khổng lồ và tự đứng trên đôi chân của mình hay không là câu hỏi lớn mà tất cả chúng ta có trách nhiệm trả lời”, ĐB Phạm Trọng Nhân trăn trở.

Số liệu tăng trưởng không hợp lý?

ĐB Hoàng Quang Hàm nhắc lại ý kiến của nhiều cử tri cho rằng, số liệu tăng trưởng những năm gần đây không hợp lý. Tăng trưởng các quý tăng lên đột ngột không theo quy luật thông thường, quý cuối năm tăng trưởng rất cao nhưng sang quý I năm sau lại giảm xuống rất nhanh. Nếu lý giải quý I vào dịp tết nên sản xuất giảm sút là chưa thuyết phục vì được bù đắp bởi tiêu dùng, du lịch nên tốc độ tăng trưởng cũng không thể giảm quá sâu. Mặt khác, do quy trình ngân sách nên tăng trưởng đầu năm cũng không thể giảm quá nhanh. ĐB Hoàng Quang Hàm đề nghị, Chính phủ giải thích rõ và có biện pháp khắc phục ngay không nên để tình trạng này tiếp tục xảy ra.

Về dự toán ngân sách năm 2018, ĐB Hoàng Quang Hàm nêu rõ, trong tình hình nguồn lực hạn hẹp, phần lớn là tiền vay nhưng phân bổ vốn chi đầu tư phát triển dàn trải hay ưu tiên cho mục tiêu phát triển cơ cấu của nền kinh tế bố trí chậm và không đủ vốn. Kỳ họp này sẽ thông qua báo cáo khả thi của dự án Cảng hàng không quốc tế Long Thàn, chủ trương đầu tư cao tốc Bắc Nam nhưng không bố trí vốn cho kế hoạch năm 2018, không để dành vốn năm 2018, để chờ quyết định của QH sẽ phân bổ sau nên không có nguồn tiền để triển khai các dự án này năm 2018. Cùng với đó là 2 chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới và giảm nghèo bền vững, trong 3 năm, Trung ương chỉ bố trí được 36% tổng mức đầu tư tối thiểu được phê duyệt trong 3 năm nên khó đạt được mục tiêu. Vốn đầu tư của 21 chương trình mục tiêu gắn với tất cả lĩnh vực của nền kinh tế nhưng kế hoạch trung hạn bố trí cũng chỉ đạt khoảng 33% vốn được Thủ tướng phê duyệt. Với tốc độ bố trí vốn như hiện nay, kết thúc kế hoạch còn giảm xuống 53% nên việc đạt mục tiêu cơ cấu lại nền kinh tế khó đảm bảo, nhiều chính sách phát triển đồng bào dân tộc miền núi bố trí không đủ vốn hoặc không bố trí được vốn. Ngân sách Trung ương hạn hẹp, 2015, 2016 đều hụt thu, khó khăn trong bố trí cho các công trình dự án quan trọng. Trong khi đó, hỗ trợ chi đầu tư cho địa phương lại dàn trải, vượt quy định của Luật Ngân sách Nhà nước. ĐB Hoàng Quang Hàm nhấn mạnh, Chính phủ cần nhìn nhận nghiêm túc, có giải pháp khắc phục những vấn đề này thì mới có thể đạt được mục tiêu phát triển.

Đề cập đến chỉ tiêu bội chi ngân sách, nợ công, thu ngân sách dự báo không đạt kế hoạch trung hạn, ĐB Hoàng Quang Hàm cũng nêu thực tế kỷ luật tài khóa hiện nay chưa nghiêm. Nợ công dự báo đến năm 2030 khoảng 4,2 triệu tỷ đồng, trả lãi vay hàng năm chiếm 7-8% tổng chi ngân sách nhà nước, bình quân hàng năm trả lãi hơn 1 trăm nghìn tỷ đồng. Khả năng trả nợ rất khó khăn, ngân sách Trung ương không đủ để trả nợ mà phải vay đảo nợ làm quy mô nợ tăng nhanh, nợ chồng nợ.

Từ thực tế này, ĐB Hoàng Quang Hàm đề nghị, thực hiện 4 giải pháp:

Một là, Chính phủ cải cách chính sách thu, thực hiện nghiêm chủ trương giảm biên chế, giao dự toán theo đúng biên chế được giao. Đẩy nhanh cơ chế tự chủ cho các đơn vị sự nghiệp. Đặc biệt cân nhắc khoán chi không thường xuyên, mua sắm sửa chữa lớn cho các đơn vị có nguồn thu lớn đã tự chủ được kinh phí. Thực hiện tăng thu giảm chi, ưu tiên giảm bội chi trả nợ. Kiểm soát chặt chẽ việc ký kết quản lý và sử dụng vốn vay ODA.

Hai là, cân nhắc cắt giảm 13 nghìn tỷ đồng trái phiếu chưa phân bổ.

Ba là, sắp xếp lại kế hoạch đầu tư công 2018 để dành nguồn triển khai 2 dự án quan trọng quốc gia. Bố trí thu hồi tối thiểu 3% nợ đọng xây dựng cơ bản để đảm bảo năm 2030  trả hết nợ đọng xây dựng cơ bản và thu hồi đối ứng. Tăng vốn cho 2 chương trình mục tiêu quốc gia, 21 chương trình mục tiêu đã được cấp có thẩm quyền quy định.

Bốn là, báo cáo QH số vốn vay cam kết với nhà tài trợ đến năm 2030 còn thiếu hoặc dư địa còn bố trí. Đồng thời báo cáo các chỉ tiêu, vấn đề ảnh hưởng nghiêm trọng đến nợ công chưa được báo cáo, đặc biệt là vốn vay ODA.

Chính phủ chỉ đạo quyết liệt, bộ máy bên dưới thờ ơ

Các ĐBQH Hoàng Quang Hàm (Phú Thọ), Ngô Sách Thực (Bắc Giang), Nguyễn Bắc Việt (Ninh Thuận), Nguyễn Sỹ Cương (Ninh Thuận)… nhất trí với đánh giá của Chính phủ về việc bảo đảm mục tiêu tổng quát theo Nghị quyết của QH về Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2017. Về cơ bản, các giải pháp điều hành chính sách kinh tế vĩ mô đã được kiên trì thực thi đúng hướng và phù hợp diễn biến thị trường, nền kinh tế duy trì được ổn định, môi trường đầu tư kinh doanh tiếp tục được cải thiện, dần thiết lập nền tảng cho tăng trưởng kinh tế.

ĐBQH Hoàng Quang Hàm (Phú Thọ) Ảnh: Quang Khánh
ĐBQH Hoàng Quang Hàm (Phú Thọ) Ảnh: Quang Khánh

Theo ĐB Nguyễn Sỹ Cương, điểm nổi bật nhất trong báo cáo của Chính phủ về tình hình kinh tế - xã hội năm 2017 là cả 13 chỉ tiêu đều đạt và vượt mục tiêu được đề ra. Kết quả đạt được là niềm vui của cả nước, góp phần củng cố niềm tin của người dân, tạo không khí phấn khởi cho toàn xã hội. “Ai cũng nhận thấy có kết quả đó là tinh thần trách nhiệm, sự quyết liệt, sâu sát, trách nhiệm của tập thể Chính phủ, cũng như của Thủ tướng Chính phủ”, ĐB Nguyễn Sỹ Cương nói.

“Năm nay đã có nhiều “điểm sáng” trong thực hiện các nhiệm vụ phát triển KT-XH. “Sáng” ở tốc độ tăng trưởng, “sáng” trong thực hiện các chỉ tiêu chủ yếu, “sáng” trong chống tham nhũng, tiêu cực. Có những “điểm sáng” này là nhờ sự quyết tâm trong lãnh đạo của Đảng, Quốc hội, Chính phủ, toàn hệ thống chính trị và nhân dân cả nước”, ĐB Nguyễn Bắc Việt nhận định. Những kết quả này thể hiện quyết tâm cao của cả hệ thống chính trị trong việc đưa Nghị quyết Đại hội XII của Đảng vào cuộc sống, ý kiến của ĐB Ngô Sách Thực.

ĐBQH Ngô Sách Thực (Bắc Giang) Ảnh: Quang Khánh
ĐBQH Ngô Sách Thực (Bắc Giang) Ảnh: Quang Khánh

Tuy nhiên, nhiều đại biểu cũng thẳng thắn chỉ rõ, “ưu điểm rất lớn, rất căn bản, nhưng nhược điểm cũng nhiều”. Điều dễ nhận ra trong những năm đầu của nhiệm kỳ Chính phủ lần này là tình trạng “trên bảo dưới không làm”. Trong khi Chính phủ chỉ đạo quyết liệt, thì bộ máy bên dưới thờ ơ, vô cảm trong thực hiện công vụ. Dẫn chứng về tình trạng buôn bán thuốc lá lậu, ĐB Nguyễn Sỹ Cương phân tích, Báo cáo của Chính phủ chỉ nói tình trạng buôn lậu đã xảy ra, nhưng thực tế tình trạng này đang diễn ra sôi động trên cả đất liền và trên biển, tạo sự quan ngại rất lớn cho nền kinh tế, song không có một cơ quan có trách nhiệm nào có con số thống kê, từ đó đưa ra giải pháp hữu hiệu.

Từ những hạn chế này, để đạt được các mục tiêu năm 2017 và mục tiêu tăng trưởng bền vững, ĐB Ngô Sách Thực đề nghị cần chấn chỉnh kỷ cương trong đầu tư công. Người dân đang rất quan tâm đến vấn đề này. Vốn đầu tư phân bổ rất chậm, thời gian từ nay đến cuối năm còn 2 tháng, dễ tạo ra sức ép giải ngân để đạt mục tiêu về chi ngân sách. Phân cấp đầu tư, thủ tục đầu tư trong tổ chức thực hiện Luật Đầu tư công còn nhiều bất cập. Trong các văn bản pháp luật hiện hành đề ra nhiều biện pháp công khai, minh bạch, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, đấu thầu qua mạng, chỉ đạo đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin để xe qua trạm thu phí BOT là những việc cụ thể cần làm ngay.

Phó Chủ tịch Quốc hội Phùng Quốc Hiển điều khiển phiên họp 31.10 Ảnh: Quang Khánh
Phó Chủ tịch Quốc hội Phùng Quốc Hiển điều khiển phiên họp 31.10 Ảnh: Quang Khánh

Góp ý dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013

    Nổi bật
        Mới nhất
        Quốc hội thảo luận về kinh tế -xã hội và ngân sách nhà nước
        • Mặc định
        POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO