Chính trị

Quốc hội khóa I trong hành trình lịch sử của dân tộc Việt Nam:Khai mở và đặt nền móng vững chắc cho nền dân chủ - pháp quyền Việt Nam hiện đại, tiên tiến

GS.TS. Phạm Hồng Tung - Đại học Quốc gia Hà Nội 15/06/2025 12:48

Ngày 3/9/1945, một ngày sau Lễ Tuyên ngôn độc lập, phát biểu tại cuộc họp đầu tiên của Chính phủ Lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: “Trước kia chúng ta bị chế độ quân chủ chuyên chế cai trị, rồi đến chế độ thực dân không kém phần chuyên chế, nên nước ta không có hiến pháp. Nhân dân ta không được hưởng quyền tự do dân chủ”[1].

Vì thế, Người đề nghị: “Chính phủ tổ chức càng sớm càng hay cuộc Tổng tuyển cử với chế độ phổ thông đầu phiếu[2] để bầu ra Quốc hội đầu tiên trong lịch sử Việt Nam. Đây là một trong 6 nhiệm vụ cấp bách nhất của Đảng và Chính phủ sau thắng lợi của Cách mạng tháng Tám.

Dấu mốc lịch sử vĩ đại

Thật vậy, sự ra đời của Quốc hội khóa I năm 1946 là một dấu mốc vĩ đại trong lịch sử chính trị Việt Nam và lịch sử toàn châu Á nói chung, bởi nó đánh dấu sự khai sinh của chính thể cộng hòa dân chủ ở nước ta và trên toàn châu lục. Trước ngày 6/1/1946 không chỉ ở nước ta mà trên khắp châu Á chưa từng có một cuộc tổng tuyển cử nào được tổ chức; và do đó cũng chưa có nghị viện hay Quốc hội nào được thành lập. Quốc hội ra đời ở Nhật Bản sau cuộc Minh Trị Duy tân 1868 chỉ là Quốc hội lập hiến, với tư cách là một thiết chế quyền lực của chế độ quân chủ lập hiến chứ không phải của chế độ dân chủ cộng hòa.

Hàng vạn Nhân dân Hà Nội đón mừng Chủ tịch Hồ Chí Minh và các vị được giới thiệu ứng cử ĐBQH ngày 5/1/1946. Nguồn: Bảo tàng Hồ Chí Minh
Hàng vạn Nhân dân Hà Nội đón mừng Chủ tịch Hồ Chí Minh và các vị được giới thiệu ứng cử ĐBQH ngày 5/1/1946. Nguồn: Bảo tàng Hồ Chí Minh

Là một nước có truyền thống văn hiến rực rỡ lâu đời, nhưng trong tảng nền văn minh chính trị Việt Nam truyền thống chưa từng xuất hiện mầm mống tư tưởng dân chủ hay cộng hòa với ý tưởng về một tổ chức nào tương tự như Quốc hội. Lần đầu tiên thuật ngữ “Quốc hội” được người Việt Nam tìm hiểu và giới thiệu cho nhau là vào những năm 1905-1907, trong Phong trào duy tân và Phong trào Đông du.

Lần giở lại những tài liệu của Trường Đông Kinh Nghĩa thục ở Hà Nội năm 1907, chúng ta thấy trong các cuốn sách giáo khoa như “Quốc dân độc bản”“Luân lý giáo khoa - tân đính” có những mục dành giới thiệu riêng về “Quốc hội” và về “bầu cử nghị viện”. Tuy nhiên, các tài liệu này chỉ đơn thuần phổ biến thông tin ngắn gọn về “Quốc hội” chứ chưa dám coi việc thiết lập chế độ cộng hòa dân chủ và bầu cử Quốc hội như một mục tiêu của cuộc vận động duy tân ở Việt Nam.

Người đầu tiên đặt ra mục tiêu đó chính là lãnh tụ yêu nước Phan Bội Châu. Trong thời gian từ 1905-1907, cụ Phan đã dốc tâm huyết biên soạn cuốn “Tân Việt Nam” - tác phẩm có thể được coi như cương lĩnh của toàn bộ phong trào yêu nước đầu thế kỷ XX. Cụ viết: “Sau khi đã duy tân rồi, thì dân trí đã mở mang, dân khí sẽ lớn mạnh, dân quyền sẽ phát đạt; vận mệnh nước ta do dân ta nắm giữ. Giữa đô thành nước ta đặt một tòa Nghị viện lớn. Bao nhiêu việc chính trị đều do công chúng quyết định”[3].

Có thể nói, chính Phan Bội Châu là người đặt nền tảng cho tư tưởng dân chủ - đại nghị ở Việt Nam. Theo Cụ, nền dân chủ đó phải là kết tinh của dân trí, dân khí, dân quyền và phải được tổ chức thành quyền lực nhà nước theo chế độ cộng hòa dân chủ. Mặc dù còn nhắc đến vua quan, nhưng trong tư tưởng của cụ Phan, thì quyền uy tối thượng luôn luôn thuộc về dân: “Phàm nhân dân nước ta, không cứ là sang hèn, giàu nghèo, lớn bé đều có quyền bỏ phiếu bầu cử. Trên là vua nên bỏ hay nên truất, dưới là quan nên thăng hay nên giáng, dân ta đều có quyền quyết đoán cả”[4].

Đáng tiếc, trong bối cảnh của đất nước đầu thế kỷ XX, tư tưởng của Phan Bội Châu chỉ có giá trị như một giấc mơ đẹp, tiêu biểu cho khát vọng cháy bỏng của dân tộc ta hướng tới độc lập, tự do, dân chủ. Nhân danh ngọn cờ “tự do, bình đẳng, bác ái”, thực dân Pháp đã thiết lập trên đất nước ta một chế độ thực dân vô cùng hà khắc, tước đoạt mọi hình thức tối thiểu nhất của nhân quyền và dân quyền.

Để mị dân và lôi kéo các phần tử tay sai, thực dân Pháp cũng lập ra những thiết chế dân chủ giả hiệu như Hội đồng quản hạt (ở Nam Kỳ) và Viện Dân biểu (ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ). Trong làng xã họ cũng cho cải lương Hội đồng kỳ mục thành Hội đồng tộc biểu.

Tuy nhiên, chỉ có một số ít những phần tử lớp trên của dân bản xứ hợp tác chặt chẽ với chính quyền thực dân thì mới có quyền bầu cử và ứng cử. Còn những người có thực sự vì dân, dù có danh vọng rất cao, uy tín lớn, dẫu có nhất thời được bầu vào các cơ quan đó cũng bị cô lập và bị ép phải từ chức, như trường hợp cụ Huỳnh Thúc Kháng và một số nhân sĩ tiến bộ khác.

Chỉ đến khi Nhân dân ta kiên quyết đoàn kết dưới ngọn cờ cách mạng của Đảng, theo lời kêu gọi của lãnh tụ Hồ Chí Minh anh dũng nhất loạt vùng lên “đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”, thì lúc đó dân tộc ta mới giành lại được quyền tự quyết, tự định đoạt vận mệnh của mình.

Cuộc Tổng tuyển cử đầu tiên diễn ra vào ngày 6/1/1946 chính là dấu mốc vĩ đại cho thấy, Nhân dân ta đã bước lên địa vị những người quốc dân tự do dùng lá phiếu của mình để thực thi quyền và nghĩa vụ công dân của mình, xác lập nên chính thể mới, chế độ mới: chế độ dân chủ cộng hòa.

h2.jpg
Khu vực bỏ phiếu trong ngày Tổng tuyển cử 6/1/1946 bầu ra Quốc hội đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Ảnh: Tư liệu/TTXVN

Với Nhân dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh giảng giải: “Tổng tuyển cử là một dịp cho toàn thể quốc dân tự do lựa chọn những người có tài, có đức, để gánh vác công việc nước nhà”[5]. Còn đối với những người được Nhân dân bầu vào Quốc hội, Người yêu cầu: “Những người trúng cử, sẽ phải ra sức giữ vững nền độc lập của Tổ quốc, ra sức mưu sự hạnh phúc cho đồng bào. Phải luôn luôn nhớ và thực hành câu: Vì lợi nước, quên lợi nhà, vì lợi chung, quên lợi riêng. Phải làm cho xứng đáng với đồng bào, cho xứng đáng với Tổ quốc”[6].

Suốt 80 năm qua đồng hành cùng dân tộc, trải qua bao thử thách vô cùng ác liệt và vượt qua bao nhiêu khó khăn, phức tạp, tuyệt đại đa số các đại biểu của Quốc hội Việt Nam, từ khóa I cho tới khóa XV hiện nay đã và đang luôn luôn ghi nhớ, làm theo lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh: Xứng đáng với Nhân dân và với Tổ quốc.\

g1.jpg
Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng các thành viên của Chính phủ tuyên thệ nhậm chức tại Kỳ họp thứ Nhất, Quốc hội Khóa I ngày 2/3/1946. Ảnh: Tư liệu/TTXVN

Nhiều thế hệ ĐBQH khóa đầu tiên ngay trong những ngày tháng vận nước “nghìn cân treo sợi tóc” đã nêu gương mẫu mực, lay động sâu sắc tình cảm của quốc dân đồng bào cả nước.

Đó là tấm gương cụ Ngô Tử Hạ, người về sau là đại biểu cao tuổi nhất của Quốc hội khóa I, kéo xe bò dọc các con phố Hà Nội để quyên góp lương thực cứu đói cho đồng bào.

t6.jpg
Chủ tịch Hồ Chí Minh, cụ Bùi Bằng Đoàn - Trưởng ban Thường trực Quốc hội Việt Nam Dân chủ Cộng hòa khóa I (1946 -1955) cùng các vị trong Ban Thường trực Quốc hội và một số Bộ trưởng, Thứ trưởng trong Hội đồng Chính phủ. Ảnh: Tư liệu

Đó là tấm gương của cụ Nguyễn Văn Tố - vị Trưởng ban Thường trực Quốc hội khóa I (Chủ tịch Quốc hội đầu tiên) đã hy sinh anh dũng ngay trong năm đầu cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (tháng 10/1947).

Thượng tôn nguyên tắc dân chủ - pháp quyền, đặt lợi ích, vận mệnh quốc gia - dân tộc lên trên hết

Kế tục thiết chế tiền thân là Quốc dân Đại hội Tân Trào (tháng 8/1945), Quốc hội khóa I đã hoàn thành xuất sắc những nhiệm vụ vĩ đại: chung đúc ý chí, nguyện vọng của toàn dân tộc kiến tạo nên nền móng vững chắc của chế độ dân chủ cộng hòa. Việc quan trọng nhất mà Quốc hội khóa I đã hoàn thành và để lại ảnh hưởng sâu đậm, lâu dài nhất trong toàn bộ lịch sử hiện đại của dân tộc ta là: Soạn thảo thành công và thông qua bản Hiến pháp đầu tiên. Đây là bản hiến pháp đầu tiên trong lịch sử nước ta, đồng thời cũng là bản hiến pháp đầu tiên trong lịch sử toàn châu Á được biên soạn và thông qua theo nguyên tắc dân chủ - pháp quyền.

Bản Nghị quyết ngày 09/11/1946 của Kỳ họp thứ Hai, Quốc hội Khóa I ủy nhiệm Chính phủ và Ban Thường trực Quốc hội thi hành Hiến pháp. Nguồn: luutru.gov.vn
Bản Nghị quyết ngày 09/11/1946 của Kỳ họp thứ Hai, Quốc hội Khóa I ủy nhiệm Chính phủ và Ban Thường trực Quốc hội thi hành Hiến pháp. Nguồn: luutru.gov.vn

Điều 1 của Hiến pháp trang trọng ghi rõ nguyên tắc chính trị tối thượng của nước Việt Nam mới là: “Nước Việt Nam là một nước dân chủ cộng hòa. Tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo”. Điều 2 của Hiến pháp ghi rõ: “Đất nước Việt Nam là một khối thống nhất Trung Nam Bắc không thể phân chia”[7].

Bản Hiến pháp cũng chế định rõ địa vị bình đẳng pháp lý của mọi công dân Việt Nam về mọi phương diện, quy định rõ quyền và nghĩa vụ của của công dân, trong đó có những nhân quyền cơ bản, như: Tự do ngôn luận, Tự do xuất bản, Tự do tổ chức và hội họp, Tự do tín ngưỡng, Tự do cư trú, đi lại trong nước và ra nước ngoài. Đặc biệt là: quyền “được tham gia chính quyền và công cuộc kiến quốc tùy theo tài năng và đức hạnh của mình”[8]. Đây là những điều khoản chưa từng xuất hiện trong các văn bản pháp quy của bất kỳ quốc gia châu Á nào và cũng không xuất hiện trong Hiến pháp của nhiều nước phương Tây khi đó.

Việc quan trọng nhất mà Quốc hội khóa I đã hoàn thành và để lại ảnh hưởng sâu đậm, lâu dài nhất trong toàn bộ lịch sử hiện đại của dân tộc ta là: Soạn thảo thành công và thông qua bản Hiến pháp đầu tiên. Đây là bản Hiến pháp đầu tiên trong lịch sử nước ta, đồng thời cũng là bản hiến pháp đầu tiên trong lịch sử toàn châu Á được biên soạn và thông qua theo nguyên tắc dân chủ - pháp quyền.

GS.TS Phạm Hồng Tung

Một thành tựu khác rất to lớn, có ý nghĩa sâu sắc và tác động lâu dài trong lịch sử dân tộc của Quốc hội khóa I là: đã thượng tôn và củng cố khối đại đoàn kết dân tộc. Trong diễn văn khai mạc Kỳ họp thứ nhất, Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu đã chỉ ra, rằng Quốc hội khóa I “là kết quả của sự đoàn kết anh dũng phấn đấu của toàn thể đồng bào Việt Nam ta, sự đoàn kết của toàn thể đồng bào không kể già trẻ, lớn bé, gồm tất cả các tôn giáo, tất cả các dân tộc trên bờ cõi Việt Nam đoàn kết chặt chẽ thành một khối hy sinh không sợ nguy hiểm tranh lấy nền độc lập cho Tổ quốc”[9].

Trên tinh thần đó, ngay trong phiên họp đầu tiên, để mở rộng hơn nữa, củng cố hơn nữa khối đại đoàn kết dân tộc, Quốc hội khóa I đã chấp nhận lời thỉnh cầu của Chủ tịch Chính phủ liên hiệp lâm thời đồng ý dành 70 ghế cho các đại biểu của Việt Nam Quốc dân đảng và Việt Nam Cách mệnh Đồng minh hội tham gia Quốc hội mà không qua bầu cử.

Toàn cảnh Kỳ họp thứ Nhất, Quốc hội Khóa I của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa diễn ra sau ngày Tổng tuyển cử đầu tiên 06/01/1946 tại Nhà hát Lớn Hà Nội. (Ảnh tư liệu)
Toàn cảnh Kỳ họp thứ Nhất, Quốc hội Khóa I của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa diễn ra sau ngày Tổng tuyển cử đầu tiên 06/01/1946 tại Nhà hát Lớn Hà Nội. Ảnh: Tư liệu

Có thể thấy, Quốc hội khóa I vừa thượng tôn nguyên tắc dân chủ - pháp quyền, nhưng cũng luôn luôn đặt lợi ích và vận mệnh quốc gia - dân tộc lên trên hết. Đó là một bài học rất sâu sắc đối với toàn bộ nền chính trị Việt Nam hiện đại.

Thành tựu và đóng góp thứ ba có ý nghĩa sâu sắc và ảnh hưởng lâu dài của Quốc hội khóa I trong lịch sử dân tộc là lề lối làm việc dân chủ - pháp quyền, trọng dân, vì dân. Ngay từ phiên họp đầu tiên, Quốc hội khóa I đã tỏ rõ tinh thần dân chủ đại nghị rất nghiêm minh khi thảo luận rất thẳng thắn, có lúc khá “gay gắt” về một số vấn đề, như quyền hạn và thành phần của Ban Thường trực Quốc hội[10].

h3.jpg
Hiến pháp năm 1946 - bản Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa với nhiều tư tưởng tiến bộ vẫn còn nguyên giá trị đến hôm nay. Ảnh: baotanglichsu.vn

Tất cả các công việc hệ trọng đối với chính thể và đất nước, như tổ chức biên soạn và thông qua Hiến pháp, bầu Chủ tịch nước, Thành lập và phê chuẩn Chính phủ mới, truy nhận các chính phủ lâm thời, bổ sung số đại biểu, chất vấn và trả lời chất vấn[11], thông qua các nghị quyết, tuyên bố của Quốc hội… đều được thảo luận công khai, nghiêm túc, dân chủ theo đúng các thể thức và thông lệ quốc tế của các nghị viện dân chủ - pháp quyền trên thế giới.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc báo cáo tại Kỳ họp thứ Ba, Quốc hội khóa I nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, thông qua Luật Cải cách ruộng đất (tháng 12/1953) Ảnh: Tư liệu
Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc báo cáo tại Kỳ họp thứ Ba, Quốc hội khóa I nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, thông qua Luật Cải cách ruộng đất (tháng 12/1953). Ảnh: Tư liệu

Nhiều sáng kiến của các đại biểu đã được đưa ra thảo luận dân chủ, kỹ càng và quyết nghị tại nghị trường, nếu được thông qua sẽ có hiệu lực pháp lý cao ngay lập tức. Chẳng hạn, ngay trong ngày họp đầu tiên, đại biểu Ngô Tử Hạ đề nghị: “Quốc hội yêu cầu các đảng phái, vì quyền lợi tối cao của quốc gia phải hoạt động trong vòng pháp luật và thực hành ngay việc thống nhất quân đội, hành chính và tuyên truyền”[12]. Quốc hội tán thành và đây là cơ sở pháp lý vững chắc để sau này Chính phủ tiến hành những biện pháp kiên quyết nhằm ngăn chặn và đập tan âm mưu phản loạn của một số phe đảng phản động. Đặc biệt, trong các phiên họp của Quốc hội khóa I, Nhân dân có thể vào dự khán.

Đối với những người được Nhân dân bầu vào Quốc hội, Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu: “Những người trúng cử, sẽ phải ra sức giữ vững nền độc lập của Tổ quốc, ra sức mưu sự hạnh phúc cho đồng bào. Phải luôn luôn nhớ và thực hành câu: Vì lợi nước, quên lợi nhà, vì lợi chung, quên lợi riêng. Phải làm cho xứng đáng với đồng bào, cho xứng đáng với Tổ quốc”.

Suốt 80 năm qua đồng hành cùng dân tộc, trải qua bao thử thách vô cùng ác liệt và vượt qua bao nhiêu khó khăn, phức tạp, tuyệt đại đa số các đại biểu của Quốc hội Việt Nam, từ khóa I cho tới khóa XV hiện nay, đã và đang luôn luôn ghi nhớ, làm theo lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh: Xứng đáng với Nhân dân và với Tổ quốc.

GS. TS. Phạm Hồng Tung

Thành tựu và đóng góp thứ tư rất to lớn và có ý nghĩa sâu sắc của Quốc hội là tham gia lãnh đạo thắng lợi cuộc kháng chiến thần thánh chống thực dân Pháp xâm lược từ 1946-1954. Bế mạc Kỳ họp thứ nhất, Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: “Quốc hội họp lần này là Quốc hội kháng chiến mà Chính phủ cử ra là Chính phủ kháng chiến”[13].

Với tinh thần đó, Quốc hội khóa I đã làm tất cả những gì có thể để cùng Chính phủ lãnh đạo thành công cuộc kháng chiến. Do điều kiện chiến tranh, từ sau kỳ họp thứ hai (28/10 đến 9/11/1946) đến tháng 12/1953, Quốc hội không thể họp toàn thể. Cho nên, Ban Thường trực Quốc hội đã trực tiếp cùng Chính phủ phối hợp định ra các quyết sách lớn cho toàn bộ cuộc kháng chiến chống Pháp, bao gồm cả những việc nội trị, ngoại giao, tổ chức chính quyền và thực hiện quyền công dân ở các vùng tự do, vùng chiến khu.

Quang cảnh phiên họp. Ảnh: Phạm Thắng
Toàn cảnh phiên họp thảo luận tại Hội trường về dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của 11 Luật về quân sự, quốc phòng tại Kỳ họp thứ Chín, Quốc hội khóa XV ngày 14/6/2025. Ảnh: Phạm Thắng

Nhờ có cơ chế phối hợp nhịp nhàng, đồng bộ và hiệu quả giữa hệ thống cơ quan dân cử, chính quyền các cấp và các bộ phận khác của hệ thống chính trị cách mạng mà sự lãnh đạo xây dựng hậu phương và chỉ huy kháng chiến luôn luôn được củng cố, thông suốt và hiệu quả. Đó là cơ sở quan trọng nhất bảo đảm cho cuộc kháng chiến và kiến quốc thắng lợi.

Là Quốc hội khóa đầu tiên của nước Việt Nam trong kỷ nguyên độc lập, tự do và xây dựng chủ nghĩa xã hội, Quốc hội khóa I đã để lại những dấu ấn rất sâu sắc, có ý nghĩa trọng đại trong lịch sử dân tộc. Đó là lần đầu tiên dân tộc ta hiện thực hóa được ước mơ, khát vọng làm chủ đất nước, làm chủ vận mệnh của quốc gia; lần đầu tiên người dân Việt Nam trở thành người công dân thực sự của một chế độ dân chủ, cộng hòa.

Với tư cách là cơ quan dân cử cao nhất, thiết chế hiến định tối cao, Quốc hội khóa I đã khai mở và đặt nền móng vững chắc cho toàn bộ nền dân chủ - pháp quyền Việt Nam hiện đại, tiên tiến bậc nhất châu lục, với những đặc trưng thực sự tiêu biểu: dân tộc, dân chủ, bình đẳng, pháp quyền và nhân quyền. Đây chính là những cơ sở, truyền thống mà Quốc hội nước ta liên tục kế thừa và phát huy trong những chặng đường lịch sử tiếp theo của dân tộc.

-------------------

[1] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 4, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 7.

[2] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 4, sđd, tr. 7.

[3] Phan Bội Châu, Toàn tập, Tập 2, Nxb. Thuận Hóa - Trung tâm Văn hóa Ngôn ngữ Đông Tây, Hà Nội, 2001, tr. 179.

[4] Phan Bội Châu, Toàn tập, Tập 2, sđd, tr. 179.

[5] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 4, sđd, tr. 153.

[6] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 4, sđd, tr. 167.

[7] Hiến pháp nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. https://thuvienphapluat.vn/van-ban/Bo-may-hanh-chinh/Hien-phap-1946-Viet-Nam-Dan-Chu-Cong-Hoa-36134.aspx. Truy cập, ngày 9-5-2025.

[8] Hiến pháp nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. https://thuvienphapluat.vn/van-ban/Bo-may-hanh-chinh/Hien-phap-1946-Viet-Nam-Dan-Chu-Cong-Hoa-36134.aspx. Truy cập, ngày 9-5-2025.

[9] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 4, sđd, tr. 216.

[10] Báo Cứu quốc, số ra ngày 3/3/1946.

[11] Báo Cứu quốc, số ra ngày 29/10/1946. Từ Kỳ họp thứ hai hoạt động chất vấn và trả lời chất vấn được Quốc hội khóa I chính thức quy định. Tại phiên họp ngày 30/10/1946 đã có nhiều cuộc chất vấn và trả lời chất vấn khá gay gắt, rốt ráo về một số vấn đề hệ trọng của quốc gia.

[12] Báo Cứu quốc, số ra ngày 3/3/1946.

[13] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 4, sđd, tr. 224.

    Nổi bật
        Mới nhất
        Quốc hội khóa I trong hành trình lịch sử của dân tộc Việt Nam: Khai mở và đặt nền móng vững chắc cho nền dân chủ - pháp quyền Việt Nam hiện đại, tiên tiến
        • Mặc định
        POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO