Cần rõ cơ chế tài chính, quỹ hỗ trợ doanh nghiệp
Sáng 19/11, thảo luận tại Tổ 6 (Đoàn ĐBQH các tỉnh Đồng Nai, Lạng Sơn, TP. Huế) về dự thảo Nghị quyết về một số cơ chế, chính sách đặc thù nhằm nâng cao hiệu quả công tác hội nhập quốc tế, các nhấn mạnh cần làm rõ tiêu chuẩn quốc tế, cơ chế tài chính, quỹ hỗ trợ doanh nghiệp và bổ sung cơ chế hỗ trợ phù hợp cho địa phương biên giới, bảo đảm tính khả thi, hiệu quả công tác đối ngoại và phát triển kinh tế cửa khẩu.
Minh bạch quỹ, tiêu chuẩn quốc tế
Góp ý vào dự thảo Nghị quyết về một số cơ chế, chính sách đặc thù nhằm nâng cao hiệu quả hội nhập quốc tế, ĐBQH Nguyễn Thị Sửu (TP. Huế) cho rằng, đây là văn bản quan trọng, thể hiện quyết tâm của Đảng và Nhà nước trong việc thúc đẩy hội nhập. Tuy nhiên, để đảm bảo tính khả thi, minh bạch và tuân thủ cam kết quốc tế, dự thảo cần được chỉnh lý một số nội dung kỹ thuật lập pháp.

Về Điều 9 quy định áp dụng tiêu chuẩn quốc tế, đại biểu nhấn mạnh cần làm rõ tiêu chí lựa chọn tiêu chuẩn phù hợp với điều kiện Việt Nam, xác định cơ quan thẩm định độc lập và tham khảo ý kiến chuyên gia nhằm tránh lạm dụng hoặc tùy tiện, bảo đảm an toàn kỹ thuật và lợi ích quốc gia. Về Điều 14, liên quan cơ chế tài chính hỗ trợ doanh nghiệp bị kiện ở nước ngoài, đại biểu đề nghị thay hỗ trợ trực tiếp bằng các hình thức phi công cụ hóa như hỗ trợ kỹ thuật, tư vấn pháp lý, đào tạo, đồng thời xây dựng cơ chế giám sát và phối hợp chặt chẽ giữa Bộ Tài chính và Bộ Công Thương để không vi phạm các cam kết quốc tế.
Về việc thành lập Quỹ phát triển doanh nghiệp hội nhập và Quỹ xúc tiến xuất khẩu ngành hàng tại Điều 12 và 13, đại biểu kiến nghị bổ sung cơ chế kiểm soát minh bạch, bao gồm kiểm toán độc lập, báo cáo công khai và tiêu chí đánh giá hiệu quả, nhằm tránh rủi ro lãng phí, tham nhũng và sử dụng sai mục đích. Đối với Điều 23 về bổ nhiệm các chức danh đặc biệt như Đại sứ, Đặc phái viên, đại biểu nhấn mạnh cần quy định rõ trách nhiệm pháp lý, cơ chế xử lý vi phạm, thời hạn bổ nhiệm và đánh giá hiệu quả công tác, nhằm đảm bảo trách nhiệm cá nhân và cơ quan quản lý trong các hoạt động mang tính chiến lược.
Cũng bày tỏ sự nhất trí với chủ trương chính sách của dự thảo Nghị quyết, đặc biệt là những mục tiêu nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế, song ĐBQH Lê Hoàng Hải (Đồng Nai) cho rằng, để hoàn thiện văn bản, dự thảo Nghị quyết cần có sự rà soát lại. Cụ thể, đại biểu đề nghị bỏ Khoản 2 của dự thảo Nghị quyết. Lý do là Khoản 2 chưa thể hiện rõ nguyên tắc thiết lập cơ chế đặc thù, trong khi các Khoản 1, 3, 4 và 5 đã bao quát đầy đủ các trường hợp theo tinh thần nguyên tắc áp dụng, do đó Khoản 2 trở nên thừa và không cần thiết.
Về xử lý khó khăn phát sinh trong hợp tác quốc tế (Phần 2 của dự thảo), đại biểu bày tỏ sự băn khoăn về hai nội dung chính liên quan đến thời hạn và quy trình thủ tục. Về thời hạn áp dụng, dự thảo Nghị quyết quy định đến 31/12/2030, tức 5 năm, trong khi Nghị quyết số 190 năm 2025 chỉ quy định 2 năm. Đại biểu nhận định, 5 năm là quá dài, không phù hợp với nguyên tắc pháp chế và các
Về quy trình thủ tục, đại biểu đề xuất để Chính phủ quy định trình tự, thủ tục thực hiện Nghị quyết tại Nghị định hướng dẫn, thay vì quy định trực tiếp trong Nghị quyết
Cần tháo gỡ khó khăn về tài chính và nhân lực
Đánh giá cao chủ trương tăng cường phân cấp, trao quyền cho chính quyền địa phương được quy định trong dự thảo Nghị quyết về một số cơ chế, chính sách đặc thù nhằm nâng cao hiệu quả hội nhập quốc tế, song xuất phát từ thực tiễn của các tỉnh biên giới, đặc biệt là Lạng Sơn, ĐBQH Chu Thị Hồng Thái (Lạng Sơn) cho rằng, thực tế có nhiều khó khăn về nguồn lực tài chính và nhân lực có thể hạn chế tính khả thi của các quy định.

Cụ thể, Điều 15 quy định việc thành lập văn phòng đại diện UBND cấp tỉnh ở nước ngoài là cần thiết để tăng cường xúc tiến đối ngoại và hợp tác quốc tế, nhưng dự thảo chưa quy định rõ mô hình tổ chức, tiêu chí lựa chọn địa bàn và cơ chế phối hợp với cơ quan đại diện Việt Nam. Quan trọng hơn, yêu cầu địa phương tự bảo đảm toàn bộ kinh phí là rào cản lớn đối với các tỉnh thu ngân sách thấp.
Đối với việc tham gia diễn đàn và cơ chế hợp tác quốc tế của chính quyền địa phương (Điều 16) là cần thiết để tăng tính linh hoạt, nhưng khái niệm còn rộng, hướng dẫn chưa cụ thể, trong khi chi phí tham dự và nguồn nhân sự đối ngoại hạn chế, đặc biệt ở các xã biên giới, là trở ngại thực tế.
Về Điều 17, quyền quyết định sửa chữa, xây mới mốc giới và kè chống sạt lở do địa phương đảm nhiệm cũng gặp khó khăn, bởi chi phí đột xuất lớn trong khi ngân sách chủ yếu chi thường xuyên, thêm vào đó, yêu cầu biên bản xác nhận song phương thường kéo dài, gây chậm trễ. Bên cạnh đó, khó khăn về nhân lực ngoại vụ, kỹ năng ngoại giao, kiến thức pháp luật quốc tế và ngoại ngữ — nhất là tiếng Trung — khiến việc triển khai nhiệm vụ đối ngoại cấp tỉnh trở nên khó khăn.
Từ thực tế đó, đại biểu Chu Thị Hồng Thái đề nghị Ban soạn thảo nghiên cứu bổ sung cơ chế hỗ trợ phù hợp cho địa phương biên giới, bao gồm: hỗ trợ từ ngân sách Trung ương cho các địa phương có nguồn thu thấp, cho phép sử dụng nguồn dự phòng hoặc nguồn chi sự nghiệp kinh tế để xử lý tình huống khẩn cấp về biên giới; tăng cường biên chế, đào tạo chuyên sâu về ngoại ngữ, đối ngoại, thương mại biên mậu cho cán bộ; hướng dẫn cụ thể về thẩm quyền, phạm vi và quy trình tham gia hợp tác quốc tế cấp địa phương để bảo đảm tính chủ động và hiệu quả công tác đối ngoại gắn với phát triển kinh tế cửa khẩu, đồng thời giữ vững an ninh biên giới.
"Thời gian thực hiện các dự án vay vốn nước ngoài quá lâu"
Đề cập đến thời gian thực hiện dự án, đại biểu Phạm Như Hiệp (TP. Huế) chỉ rõ, thời gian thực hiện các dự án vay vốn nước ngoài hiện quá lâu, là trở ngại lớn đối với các đơn vị thực hiện. Nhiều dự án kéo dài tới 10 năm hoặc hơn, trong khi nhiệm kỳ của giám đốc hay lãnh đạo chỉ 5 năm, khiến các dự án phát triển vay vốn, dù có lãi suất thấp (thậm chí 0,9%/năm, ân hạn 10 năm, trả nợ 30 năm như dự án của Hàn Quốc), trở nên không hấp dẫn và cản trở quá trình hội nhập quốc tế. Chỉ ra thực tế này, đại biểu đề xuất cần có chính sách cởi mở hơn hoặc cơ chế phối hợp chặt chẽ nhưng linh hoạt để các đơn vị có thể triển khai dự án hiệu quả.

Về chi phí, đại biểu đề nghị Chính phủ xem xét lại việc tính phần vốn đối ứng cộng thêm 70% vào phí quản lý, đồng thời giảm chi phí quản lý, đặc biệt với các dự án y tế, giáo dục và những dự án nâng cao chất lượng sống cho người dân.
Liên quan đến hội nhập quốc tế, đại biểu Phạm Như Hiệp đề nghị, Việt Nam nên nghiên cứu và áp dụng các tiêu chuẩn quốc tế phổ biến, thay vì xây dựng hệ tiêu chuẩn riêng biệt. Cụ thể, ngay trong lĩnh vực y tế, các tiêu chuẩn như JCI rất chặt chẽ nhưng có thể triển khai được. Việt Nam cần thiết lập hệ thống kiểm tra, hỗ trợ và kết nối với các tổ chức đánh giá quốc tế như JCI, H&MA ngay tại Việt Nam. "Khi các bệnh viện đạt tiêu chuẩn quốc tế, đây sẽ là minh chứng rõ ràng, giúp triển khai khám chữa bệnh cho người nước ngoài thuận lợi hơn"- đại biểu nhấn mạnh.
Về huy động chuyên gia và sử dụng ngoại ngữ hiếm (Điều 26), đại biểu đặt vấn đề cần có danh mục xác định rõ thế nào là “ngoại ngữ hiếm” trong bối cảnh hiện nay, bởi số lượng người nói các ngoại ngữ phổ biến có thể thay đổi theo thời gian, ví dụ tiếng Pháp hiện nay có thể đã trở thành ngoại ngữ hiếm.
Ngoài ra, liên quan đến chủ trương đầu tư dự án đầu tư xây dựng cảng hàng không quốc tế Gia Bình, các ĐBQH Nguyễn Hải Nam, Phạm Như Hiệp (TP. Huế) nhấn mạnh tình trạng bất tiện khi di chuyển giữa ga quốc tế và ga nội địa, như tại Nội Bài, khiến hành khách phải phụ thuộc vào xe buýt hoặc taxi, cản trở việc Việt Nam trở thành trung tâm trung chuyển hàng không. Do đó, các đại biểu đề xuất ngay từ khi quy hoạch cần xây dựng hệ thống kết nối hàng không đồng bộ, như đường sắt trên cao giữa các ga hoặc sân bay, để rút ngắn thời gian di chuyển (hiện mất khoảng 1 giờ 10 phút cho 60 km) và giảm nguy cơ tắc đường.

Ở góc nhìn khác, ĐBQH Phan Viết Lượng (Đồng Nai) lưu ý, dự án sân bay quốc tế Gia Bình liên quan trực tiếp đến việc di dời các di tích lịch sử, là vấn đề đặc biệt nhạy cảm. Theo đó, đại biểu cho rằng cơ quan chủ trì dự án cần cung cấp báo cáo chi tiết, đầy đủ về số lượng, loại hình, giá trị di tích, đồng thời làm rõ mối liên hệ giữa di tích với cộng đồng dân cư và hệ sinh thái xung quanh.
Đại biểu Phan Viết Lượng cũng lưu ý, việc thiếu ý kiến chính thức từ Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch và Hội đồng Di sản Văn hóa Quốc gia khiến các cam kết bảo tồn hiện chưa có cơ sở thực tiễn. Do đó, đại biểu đề nghị tiến hành khảo sát, tham khảo ý kiến chuyên môn và làm rõ tính khả thi trước khi Quốc hội biểu quyết chủ trương đầu tư, tránh rủi ro phải điều chỉnh sau này.