Thời sự Quốc hội

Cần mốc thời gian và cơ chế giám sát hiệu quả

Hải Thanh 19/11/2025 15:10

Sáng 19/11, thảo luận tại Tổ 6 (gồm Đoàn ĐBQH các tỉnh Đồng Nai, Lạng Sơn và TP. Huế) về dự thảo Nghị quyết của Quốc hội nhằm tháo gỡ vướng mắc trong tổ chức thi hành Luật Đất đai, các ĐBQH nhấn mạnh sự cần thiết ban hành nghị quyết với cơ chế đủ mạnh để xử lý những tồn tại kéo dài. Theo đó, việc xác định mốc thời gian rõ ràng, đồng bộ hóa quy định và tăng cường giám sát sẽ là chìa khóa bảo đảm tính khả thi, hạn chế rủi ro phát sinh.

Tổ 6 (Lạng Sơn, Huế, Đồng Nai)
Quang cảnh phiên họp Tổ 6 sáng 19/11. Ảnh: Hồ Long

Bổ sung cơ chế cập nhật giá trong trường hợp có biến động thị trường

Góp ý vào dự thảo Nghị quyết của Quốc hội quy định một số cơ chế, chính sách tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong tổ chức thi hành Luật Đất đai, các ĐBQH tại Tổ 6 đánh giá cao tinh thần chủ động, kịp thời của Chính phủ khi trình các dự thảo Nghị quyết, đặc biệt là Nghị quyết về cơ chế, chính sách tháo gỡ khó khăn trong tổ chức thi hành Luật Đất đai. Tuy nhiên, để bảo đảm tính khả thi, minh bạch và phù hợp với thực tiễn, nhiều ý kiến đề nghị Ban soạn thảo cần tiếp tục rà soát để có chỉnh lý cho phù hợp.

Cụ thể, tại Điều 7 liên quan đến bảng giá đất, ĐBQH Nguyễn Thị Sửu (TP. Huế) cho rằng, phạm vi sử dụng bảng giá đất hiện rất rộng nhưng chưa xác định rõ mốc thời điểm áp dụng cho từng mục đích như bồi thường, đấu giá, thuế, phí… Điều này dễ gây lúng túng và thiếu thống nhất ở địa phương. Đại biểu đề nghị quy định cụ thể thời điểm áp dụng giá đất đối với từng thủ tục, đồng thời bổ sung cơ chế cập nhật giá trong trường hợp có biến động thị trường hoặc thay đổi quy hoạch.

DBQH Nguyễn Thị Sửu (Huế)
ĐBQH Nguyễn Thị Sửu (TP. Huế) phát biểu. Ảnh: Hồ Long

Đối với quy định xây dựng bảng giá đất đến từng thửa (khoản 2), đại biểu đánh giá đây là bước tiến lớn, giúp phản ánh sát giá trị thực tế. Tuy vậy, việc triển khai đòi hỏi dữ liệu số hoàn chỉnh và nguồn lực lớn. Vì vậy, nên chuyển từ “được xây dựng” sang “phải xây dựng” khi đủ điều kiện và có lộ trình cập nhật định kỳ hằng năm.

Về thẩm quyền và thời điểm áp dụng bảng giá đất (khoản 3), đại biểu đề nghị làm rõ trách nhiệm của các cơ quan chuyên môn trong quá trình lập bảng giá; đồng thời Bộ Nông nghiệp và Môi trường cần ban hành hướng dẫn phương pháp định giá đến từng thửa để tránh chênh lệch giữa các địa phương.

Đối với quy định chuyển tiếp khi chưa có giá cụ thể (khoản 4), đại biểu cho rằng cần có tiêu chí minh bạch để UBND tỉnh quyết định áp dụng bảng giá hay tiếp tục dùng giá cụ thể; các quyết định phải dựa trên thông tin thị trường và được công khai.

Đoàn Huế
Đoàn ĐBQH TP. Huế tại phiên thảo luận Tổ 6. Ảnh: Hồ Long

Về thời hạn hoàn thành căn cứ định giá (khoản 5), đại biểu cho rằng thời hạn 1/7/2026 có thể gây áp lực lớn trong điều kiện nhiều địa phương chưa hoàn tất dữ liệu đất đai; do đó nên cho phép gia hạn trong trường hợp bất khả kháng, đồng thời quy định cơ chế đánh giá trách nhiệm nếu chậm trễ.

Liên quan đến hệ số điều chỉnh giá đất (Điều 8), đại biểu Nguyễn Thị Sửu cho rằng, định nghĩa hệ số điều chỉnh hiện còn chung chung, chưa có công thức hoặc phương pháp xác định. Theo đó, đề nghị Bộ Nông nghiệp và Môi trường quy định cụ thể cách tính dựa trên giá thị trường và dữ liệu khu vực. Bên cạnh đó, khi UBND cấp tỉnh ban hành hệ số điều chỉnh, cần có quy trình công khai, lấy ý kiến và có sự tham gia thẩm định của Hội đồng thẩm định giá để bảo đảm khách quan.

Xuất phát từ thực tiễn của địa phương triển khai các dự án trên địa bàn tỉnh, đặc biệt là các dự án năng lượng như điện gió, điện rác, ĐBQH Lưu Bá Mạc (Lạng Sơn) cũng cho biết, hiện nay Sở Tài chính tỉnh Lạng Sơn đang gặp khó khăn trong việc thực hiện thủ tục chấp thuận chủ trương đầu tư đối với một số dự án điện gió; đồng thời vẫn phải chờ hướng dẫn chính thức từ Vụ Pháp chế, Bộ Nông nghiệp và Môi trường và Vụ Pháp chế, Bộ Tài chính. Tuy vậy, ngay cả các cơ quan này cũng rất khó đưa ra câu trả lời rõ ràng do quy định pháp luật hiện hành còn thiếu cụ thể.

Luu Ba Mạc
ĐBQH Lưu Bá Mạc (Lạng Sơn) phát biểu. Ảnh: Đức Minh

"Tuy đây là vướng mắc thực tế của riêng Lạng Sơn nhưng cũng là điểm nghẽn chung của nhiều địa phương, bởi Điều 79, Luật Đất đai hiện hành chưa quy định tường minh đối với các trường hợp thu hồi đất để cho thuê thực hiện dự án đầu tư", đại biểu nhấn mạnh.

Từ thực tiễn đó, đại biểu Lưu Bá Mạc đề xuất hai nội dung cần được bổ sung, làm rõ trong Điều 4 của dự thảo Nghị quyết: Thứ nhất, đối với trường hợp Nhà nước thu hồi đất theo Điều 79 từ các loại đất hiện trạng (đất ở, đất trồng cây lâu năm, đất trồng cây hàng năm…) để cho nhà đầu tư thuê thực hiện các dự án điện gió, điện rác, cần được quy định rõ có phải thực hiện thủ tục chuyển mục đích sử dụng đất hay không. Bởi, hiện Luật Đất đai chưa có quy định cụ thể về vấn đề này, dẫn đến lúng túng trong áp dụng.

Thứ hai, cần làm rõ các dự án điện gió, điện rác thuộc trường hợp Nhà nước thu hồi đất theo Điều 79 có phải thực hiện thủ tục chấp thuận chủ trương đầu tư theo pháp luật về đầu tư hay không. Do thiếu quy định rành mạch nên quá trình xử lý hồ sơ tại địa phương đang gặp nhiều khó khăn. Đại biểu Lưu Bá Mạc cho biết, khoản 4 Điều 4 của dự thảo Nghị quyết đã đề cập đến Điều 79, tuy nhiên vẫn chưa giải quyết được hai vướng mắc nêu trên. Vì vậy, đề nghị Ban soạn thảo nghiên cứu bổ sung, biên tập hoàn thiện nội dung theo hướng tích hợp thêm các quy định cụ thể, nhằm tháo gỡ điểm nghẽn pháp lý và tạo cơ sở thống nhất để các địa phương triển khai dự án trên thực tế.

Gỡ vướng mắc đất đai bằng mốc thời gian

Góp ý về dự thảo nghị quyết của Quốc hội quy định một số cơ chế, chính sách tháo gỡ khó khăn trong thi hành Luật Đất đai, ĐBQH Bùi Xuân Thống (Đồng Nai) đề nghị Ban soạn thảo tập trung xử lý ba nhóm vướng mắc lớn đang ảnh hưởng trực tiếp tới người dân, doanh nghiệp và chính quyền địa phương, nhất là trong bối cảnh chờ sửa đổi Luật Đất đai toàn diện.

Anh Thong
ĐBQH Bùi Xuân Thống (Đồng Nai) phát biểu. Ảnh: Đức Minh

Cụ thể, liên quan đến vấn đề thu hồi đất, bồi thường và tái định cư, đại biểu cho rằng “giá đất vẫn là điểm nghẽn lớn nhất”. Thực tiễn cho thấy, người dân phần lớn không phản đối chủ trương thu hồi đất, nhưng thường phát sinh khiếu kiện liên quan đến giá bồi thường và bố trí tái định cư. Đại biểu đề nghị làm rõ hơn cơ chế xác định tỷ lệ diện tích thu hồi cũng như phương pháp xác định giá đất. Bên cạnh đó, đại biểu nêu tình huống phổ biến tại Đồng Nai khi doanh nghiệp gặp khó do chỉ còn vài hộ dân (3–5 hộ) không đồng thuận, khiến dự án bị “ách tắc”. Vì vậy, cần có cơ chế cho phép doanh nghiệp ủy quyền cho cá nhân thu gom đất để đảm bảo tính khả thi trong triển khai dự án.

Liên quan đến xử lý công trình xây dựng trái phép trên đất nông nghiệp, đại biểu Bùi Xuân Thống nhận định đây là nội dung người dân kỳ vọng nghị quyết sớm tháo gỡ. Theo luật, nếu công trình xây trái phép nhưng phù hợp quy hoạch đất ở, có thể được xem xét chuyển mục đích sử dụng đất. Tuy nhiên, thực tiễn lúng túng ở chỗ: liệu cho “phạt cho tồn tại” hay buộc cưỡng chế tháo dỡ rồi mới làm thủ tục. Đại biểu cho rằng, người dân mong được xử lý theo hướng “phạt cho tồn tại” để giảm thiệt hại, nhưng cũng cảnh báo không kiểm soát chặt sẽ vô tình hợp thức hóa sai phạm, tạo tiền lệ xấu, nhất là tại các địa phương đô thị hóa nhanh.

Đoàn Đồng Nai
Đoàn ĐBQH Đồng Nai tại phiên thảo luận Tổ 6 sáng 19/11. Ảnh: Hồ Long

Để giải quyết dứt điểm vấn đề trên, đại biểu kiến nghị quy định mốc thời gian cụ thể cho các trường hợp được xem xét “phạt cho tồn tại” nếu công trình phù hợp quy hoạch. Mốc thời gian sẽ giúp quản lý đất đai hiệu quả, ổn định xã hội và khai thác được nguồn lực đất đai, đồng thời hạn chế phát sinh điểm nóng. Đại biểu dẫn chứng nhiều trường hợp người lao động mua đất giá rẻ, xây nhà chi phí thấp để ở; nếu buộc cưỡng chế hàng nghìn trường hợp, sẽ gây xáo trộn lớn, tiềm ẩn nguy cơ về an ninh chính trị và trật tự xã hội.

Về tiền thuế chậm nộp trong thời kỳ dịch bệnh, đại biểu nêu rõ tại các địa phương từng phong tỏa dài ngày như Đồng Nai, Bình Dương, TP. Hồ Chí Minh, cả cơ quan thuế và người dân đều không thể thực hiện thủ tục. Tuy nhiên, hệ thống tính thuế tự động vẫn ghi nhận người dân quá hạn, dẫn đến phát sinh tiền phạt và tiền chậm nộp kéo dài nhiều năm. Đây là tình huống đặc thù, cần cơ chế xử lý riêng để không biến khoản thuế thành “gánh nặng treo”.

Đại biểu Bùi Xuân Thống nhấn mạnh, Nghị quyết sẽ có ý nghĩa đặc biệt quan trọng nhằm tháo gỡ những ách tắc kéo dài, hỗ trợ công tác quản lý của địa phương.

Hải Thanh