Chính trị

Cơ chế đặc thù về hội nhập quốc tế: Bước tiến quan trọng, cung cấp công cụ ngoại giao linh hoạt, nhạy bén cho công tác hội nhập quốc tế

Quỳnh Chi; Ảnh: Lâm Hiển 19/11/2025 11:30

Việc chế định hóa chức danh đặc phái viên thông qua Nghị quyết của Quốc hội là một bước tiến quan trọng, cung cấp công cụ ngoại giao linh hoạt, nhạy bén cho công tác hội nhập quốc tế. Sự thành công của cơ chế này sẽ phụ thuộc vào việc lựa chọn đúng người và thiết lập quy chế hoạt động chuyên nghiệp, minh bạch để thực sự biến đặc phái viên thành "công cụ chủ lực" giải quyết các vấn đề chiến lược quốc gia.

Tổ 11-.4
Toàn cảnh phiên thảo luận tại Tổ 11

Sáng nay, 19/11, tiếp tục Kỳ họp thứ Mười, Quốc hội thảo luận tại tổ về: dự thảo Nghị quyết của Quốc hội quy định một số cơ chế, chính sách tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong tổ chức thi hành Luật Đất đai; dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về một số cơ chế, chính sách đặc thù nhằm nâng cao hiệu quả công tác hội nhập quốc tế và chủ trương đầu tư Dự án đầu tư xây dựng Cảng hàng không quốc tế Gia Bình.

Tránh mở rộng phạm vi đối tượng thụ hưởng chính sách

Tại Tổ 11 gồm Đoàn ĐBQH thành phố Cần Thơ và Đoàn ĐBQH tỉnh Điện Biên, các đại biểu nhận thấy, việc xây dựng, ban hành Nghị quyết về một số cơ chế, chính sách đặc thù nhằm nâng cao hiệu quả công tác hội nhập quốc tế là hết sức cần thiết, kịp thời thể chế hóa các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước, nhất là các nghị quyết “bộ tứ trụ cột” được ban hành vừa qua.

Đặc biệt là cụ thể hóa Nghị quyết số 59-NQ/TW ngày 24/1/2025 của Bộ Chính trị về hội nhập quốc tế trong tình hình mới, tạo điều kiện thực hiện hiệu quả hơn nữa công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế, duy trì môi trường hòa bình, ổn định, tranh thủ nguồn lực và điều kiện thuận lợi bên ngoài cho phát triển, nâng cao vị thế, uy tín của đất nước trong thời kỳ mới.

Các đại biểu ghi nhận hồ sơ dự thảo Nghị quyết đã được chuẩn bị tương đối kỹ lưỡng, đầy đủ; cụ thể, chi tiết hóa các chính sách đặc biệt, từ việc tham gia các tổ chức quốc tế, hỗ trợ doanh nghiệp kinh doanh ở nước ngoài đến việc nâng cao chất lượng đào tạo, nghiên cứu chiến lược và đảm bảo nguồn nhân lực cho công tác đối ngoại.

Đặc biệt, Nghị quyết cũng đề cập đến các chính sách tài chính, chế độ đãi ngộ đối với cán bộ làm công tác đối ngoại và quy trình xử lý các dự án hợp tác trọng điểm.

Tuy nhiên, nghiên cứu kỹ các nội dung cụ thể của dự thảo Nghị quyết, các đại biểu cũng đề nghị cầniếp tục rà soát, bổ sung, cập nhật các thông tin, lý giải, thuyết minh rõ thêm một số nội dung nhằm bảo đảm thể chế hóa đúng và đầy đủ các chủ trương, chính sách của Đảng về đối ngoại và hội nhập quốc tế, kịp thời giải quyết hiệu quả những khó khăn, vướng mắc trong lĩnh vực này hiện nay.

Trưởng Đoàn ĐBQH Thành phố Cần Thơ Nguyễn Tuấn Anh phát biểu

ĐBQH Nguyễn Tuấn Anh (Cần Thơ) đề nghị tiếp tục nghiên cứu, rà soát kỹ các nội dung trong dự thảo Nghị quyết và các luật liên quan, các dự án Luật trình Quốc hội xem xét, thông qua tại Kỳ họp thứ Mười (Luật Doanh nghiệp, Luật Thuế giá trị gia tăng, Luật Thi đua khen thưởng, dự thảo Luật Tham gia lực lượng gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc, dự thảo Luật Tình trạng khẩn cấp, dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Điều ước quốc tế …) để bảo đảm tính thống nhất, tránh tình trạng mở rộng phạm vi đối tượng hưởng các cơ chế, chính sách đặc thù trong công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế.

Nhất trí việc dự thảo Nghị quyết tập trung vào 4 nhóm chính sách lớn như đã nêu trong Tờ trình và quy định việc bố trí các nguồn lực cần thiết để thực hiện các quy định của Nghị quyết trong thực tiễn, song đại biểu Nguyễn Tuấn Anh đề nghị nghiên cứu, làm rõ tại khoản 2 Điều 2 về quy định đối tượng “các cá nhân khác có khả năng thực hiện nhiệm vụ đối ngoại, hội nhập quốc tế đặc biệt” để bảo đảm đúng đối tượng của Nghị quyết.

"Cần quy định, hướng dẫn chi tiết về “các cá nhân khác” cho cụ thể, tránh mở rộng phạm vi đối tượng thụ hưởng cơ chế, chính sách đặc thù của Nghị quyết; rà soát lại các đối tượng được hưởng cơ chế, chính sách đặc thù trong Phụ lục 1, Phụ lục 2 dự thảo Nghị quyết để tránh chi trùng lặp với các cơ chế, chính sách đặc thù khác (ví dụ một số đối tượng đã được hưởng mức hỗ trợ đối với người tham gia công tác xây dựng pháp luật theo Nghị quyết số 197/2025/QH15 về một số cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đột phá trong xây dựng và tổ chức thi hành pháp luật)", đại biểu Nguyễn Tuấn Anh lưu ý.

Bên cạnh đó, đại biểu cũng đề nghị nghiên cứu, xem xét quy định tại khoản 1 Điều 4 về “Chính phủ xây dựng và triển khai cơ chế hỗ trợ bảo hiểm rủi ro thương mại quốc tế theo mô hình phù hợp”, cần có đánh giá và quy định, hướng dẫn, lộ trình thực hiện cụ thể về “cơ chế hỗ trợ bảo hiểm rủi ro”, bảo đảm khả thi trong thực tiễn.

Bổ sung thông tin đánh giá về các nội dung quy định tại Điều 5 để bảo đảm quy định tại dự thảo Nghị quyết sẽ xử lý được khó khăn, vướng mắc trong việc thực hiện các dự án hợp tác với các đối tác nước ngoài có tính chất trọng điểm, chiến lược trong thực tiễn.

Đối với các quy định tại Điều 12 về chính sách khuyến khích doanh nghiệp hội nhập quốc tế, đại biểu Nguyễn Tuấn Anh đề nghị làm rõ đối tượng doanh nghiệp như thế nào thì được hưởng các chính sách này? Cần có cơ chế đánh giá hiệu quả về khả năng thực hiện của doanh nghiệp để được tiếp tục hưởng các ưu đãi này khi triển khai trong thực tiễn.

Tổ 11-.2
Chủ tịch Hội đồng Dân tộc Lâm Văn Mẫn và Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật và Tư pháp Hoàng Thanh Tùng tại phiên họp tổ

Theo Tờ trình của Bộ Ngoại giao, các chế độ, chính sách ưu đãi về thuế đối với doanh nghiệp đầu tư ra nước ngoài (khoản 1 đến khoản 6 Điều 12) nhằm khuyến khích doanh nghiệp hội nhập hiện chưa được quy định tại các luật thuế chuyên ngành. Đại biểu đề nghị xem xét, cân nhắc kỹ lưỡng các nội dung này, nghiên cứu các luật có liên quan (như Luật Doanh nghiệp, Luật Thuế giá trị gia tăng, Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp, Luật Các Tổ chức tín dụng, Luật Đầu tư…) để bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất của các quy định trong hệ thống pháp luật và bảo đảm khả thi trong thực tiễn. Đồng thời, nghiên cứu, bổ sung thông tin đánh giá tác động, sự cần thiết của việc thành lập và quản lý các quỹ như Quỹ phát triển doanh nghiệp hội nhập quốc tế (khoản 7 Điều 12), Quỹ Xúc tiến xuất khẩu ngành hàng (Điều 13); làm rõ vai trò, mô hình tổ chức, vận hành… các Quỹ này để bảo đảm khả thi trong thực tiễn.

Đặc biệt, đại biểu Nguyễn Tuấn Anh cũng đề nghị bổ sung căn cứ, thuyết minh, số liệu thống kê trong thực tiễn hoạt động thời gian qua về sự cần thiết của việc UBND cấp tỉnh lập Văn phòng đại diện ở nước ngoài tại một số địa bàn trọng điểm.

"Theo Tờ trình của Bộ Ngoại giao, pháp luật hiện hành chưa có quy định cụ thể về trình tự, thủ tục thành lập cũng như việc quản lý các văn phòng này. Cần cân nhắc, xem xét lại quy định tại Điều 14 vì sẽ phát sinh bộ máy, ngân sách, nguồn lực…

Hơn nữa, trong thời đại cách mạng khoa học, công nghệ hiện đại, có thể thiết lập“văn phòng ảo”, thành lập các kênh thông tin, mạng lưới kết nối hiệu quả giữa UBND cấp tỉnh và các địa bàn trọng điểm, phù hợp với Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia", đại biểu nêu quan điểm.

Trao quyền cho người dân, doanh nghiệp trong hội nhập

ĐBQH Lê Thị Thanh Lam (Cần Thơ) bày tỏ nhất trí với cách tiếp cận của cơ quan chủ trì soạn thảo về việc không quy định các giải pháp đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế trong các lĩnh vực cụ thể như khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, thu hút đầu tư hay về giáo dục, y tế trong dự thảo Nghị quyết.

ĐBQH Lê Thị Thanh Lam (Cần Thơ) phát biểu

Thay vào đó, dự thảo Nghị quyết về hội nhập tập trung vào những vấn đề chung, xuyên suốt trong tất cả các lĩnh vực; bổ sung thẩm quyền cho Chính phủ, bộ, ngành và địa phương trong việc triển khai công tác đối ngoại, hội nhập; trao quyền cho người dân, doanh nghiệp để phát huy vai trò chủ động trong công tác hội nhập.

Nhất trí với các chính sách có tính bổ trợ cho các chính sách chung mà Quốc hội đã ban hành hoặc sẽ ban hành liên quan đến các lĩnh vực, song đại biểu Lê Thị Thanh Lam cũng đặc biệt lưu ý việc tiếp tục rà soát các nội dung của dự thảo Nghị quyết để bảo đảm không trùng lặp với các chính sách đặc thù khác, không để chồng chéo, mâu thuẫn với các văn bản pháp luật hiện hành nhằm tạo điều kiện thu hút nguồn lực cho công tác đối ngoại, hội nhập kinh tế quốc tế.

Cần cơ chế lựa chọn minh bạch, chuyên nghiệp với đặc phái viên

Đề cập cụ thể đến cơ chế đặc phái viên trong hội nhập quốc tế, ĐBQH Thái Thu Xương (Cần Thơ) chỉ rõ, việc nghiên cứu và xây dựng cơ sở pháp lý cho chức danh đặc phái viên là yêu cầu cấp thiết để chủ động, bài bản, chuyên nghiệp hóa công cụ này, phục vụ hiệu quả hơn cho lợi ích quốc gia – dân tộc.

Theo đại biểu, dự thảo Nghị quyết đã giải quyết được khoảng trống pháp lý, bằng cách tạo ra một cơ chế đặc phái viên chính thức, có tính chiến lược cao, nhằm tăng cường nhân lực phục vụ hội nhập quốc tế.

ĐBQH Thái Thu Xương (Cần Thơ) phát biểu

Theo dự thảo Nghị quyết, chức danh đặc phái viên được chia thành hai cấp, gắn với thẩm quyền cao nhất của Lãnh đạo Nhà nước và Chính phủ gồm: đặc phái viên của Chủ tịch nước do Chủ tịch nước bổ nhiệm có thời hạn; đặc phái viên của Thủ tướng Chính phủ do Thủ tướng Chính phủ bổ nhiệm có thời hạn.

Để bảo đảm tính chiến lược và phối hợp của các chức danh trên, đại biểu Thái Thu Xương đề nghị, cả hai chức danh đều được bổ nhiệm cho các lĩnh vực hoặc nhiệm vụ có tầm quan trọng chiến lược trong công tác hội nhập quốc tế. Quy trình bổ nhiệm đòi hỏi sự thống nhất cao từ các cơ quan an ninh, quốc phòng và đối ngoại cốt lõi, cụ thể là ý kiến thống nhất của Bộ Quốc phòng, Bộ Công an, Bộ Ngoại giao. Đây là cơ chế quan trọng nhằm đảm bảo sự đồng bộ trong chính sách đối ngoại.

Cùng với đó, cần linh hoạt trong vai trò và nhiệm vụ. Đặc phái viên của Thủ tướng Chính phủ có thể được Thủ tướng Chính phủ quyết định cử làm Trưởng đoàn, cố vấn Đoàn đàm phán của Chính phủ hoặc thực hiện các nhiệm vụ đối ngoại khác. Sự linh hoạt này cho phép sử dụng Đặc phái viên để giải quyết các vấn đề đa dạng và phức tạp.

Về chế độ ưu đãi đặc thù, đại biểu cũng đề nghị công dân Việt Nam giữ chức danh Đặc phái viên của Chủ tịch nước và đặc phái viên của Thủ tướng Chính phủ được cấp và sử dụng hộ chiếu ngoại giao trong hoạt động công vụ, giúp đặc phái viên thực hiện nhiệm vụ một cách thuận lợi nhất.

Để triển khai hiệu quả cơ chế đặc phái viên, đại biểu Thái Thu Xương cũng đề nghị tận dụng nguồn nhân lực chất lượng cao.

Tổ 11-.1
Các đại biểu tại Tổ 11

"Chức danh đặc phái viên là cơ hội để huy động nguồn lực quý báu là các cán bộ có uy tín quốc tế, quan hệ hợp tác tốt với lãnh đạo các nước, và hiểu biết sâu sắc về các vấn đề khu vực, toàn cầu. Cần có cơ chế lựa chọn minh bạch và chuyên nghiệp để thu hút những cá nhân xuất sắc này", đại biểu nhấn mạnh.

Song song với đó, để tránh rủi ro về tính minh bạch và trách nhiệm đã từng xảy ra trước đây, Chính phủ cần quy định chi tiết về phạm vi quyền hạn và chế độ báo cáo của đặc phái viên, đặc biệt đối với các nhiệm vụ được giao, dù là nhiệm vụ đối ngoại khác.

Cần xác định rõ ràng và cập nhật thường xuyên danh sách các lĩnh vực/nhiệm vụ được coi là "tầm quan trọng chiến lược" mà đặc phái viên sẽ đảm nhiệm, đảm bảo việc bổ nhiệm đi đúng mục đích: xử lý các vấn đề chuyên sâu, nhạy cảm hoặc cấp bách.

"Việc chế định hóa chức danh đặc phái viên thông qua Nghị quyết của Quốc hội là một bước tiến quan trọng, cung cấp công cụ ngoại giao linh hoạt, nhạy bén cho công tác hội nhập quốc tế. Sự thành công của cơ chế này sẽ phụ thuộc vào việc lựa chọn đúng người và thiết lập quy chế hoạt động chuyên nghiệp, minh bạch để thực sự biến đặc phái viên thành "công cụ chủ lực" giải quyết các vấn đề chiến lược quốc gia", đại biểu Thái Thu Xương nhấn mạnh.

Quỳnh Chi; Ảnh: Lâm Hiển